Hôm nay,  

Tâm Linh & Cô Đơn

08/03/201400:00:00(Xem: 9590)
- Alo Kim, sao bạn có khỏe không?

- Tâm đó há! Kim vẫn khỏe như con bò nằm nghỉ nhai cỏ, không phải kéo xe đâu! Có chuyện gì vậy mà Tâm gọi Kim khuya vậy?

- Tâm định rủ Kim tối thứ Bảy này để sắp xếp thời giờ đi nghe một buổi diễn thuyết hay lắm…

- Tâm nói hay là hay rồi, Kim hoàn toàn tin vào bồ tèo nên quyết định đi liền không do dự…Được biết Tâm có trở ngại lái xe ban đêm, nên Kim xung phong đến đón Tâm lúc 7 giờ tối thứ Bảy này nhé! Hẹn gặp Tâm sau & có nhiều chuyện để chúng mình tâm sự sau… Thôi khuya rồi chúc bạn ngon giấc!

Ngày giờ như ngựa chạy tên bay…Thế rồi tối Thứ Bảy đến trong sự nôn nóng chờ đợi và chúng tôi vui vẻ sánh bước vào hội trường đầy ắp người và người để lắng nghe bài diễn thuyết “ Tâm Linh & Cô Đơn ”. Trên bục giảng, giọng của thuyết trình viên đầm ấm đưa mọi người vào bài giảng một cách say mê…

…Cuộc sống con người quá sức phong phú và đa dạng… Có nhiều quan hệ bên ngoài xã hội, đồng nghiệp, bạn bè & bên trong cho bản thân gia đình cha mẹ, anh em, chồng vợ, con cái… Chính những cảm xúc hình thành nên nền tản gia đình và tạo nên nhân cách con người qua cảm xúc, yêu thương. Vui cười, vồn vã, lạnh lùng, xu nịnh luồn cúi… bộc lộ ra bên ngoài. Nhưng có những cảm xúc sâu thẳm không bộc lộ mà cố đè nén khép kín bên trong con người, đó là Cô Đơn. Vậy cô đơn là gì?

- Cô đơn không có nghĩa là ở một mình. Cô đơn là một vấn đề tâm linh và phải được giải quyết bằng những phương pháp tâm linh. Cô độc có nghĩa về thể lý, chỉ trạng thái một mình, không có ai khác ở chung quanh. Cô đơn là trạng thái tinh thần, cảm thấy bị tách biệt khỏi mọi người, dù đang ở một mình hay đang có nhiều người chung quanh. Vì thế người ta thường phân biệt là người sống cô độc chưa chắc đã cảm thấy cô đơn và ngược lại, có người vẫn cảm thấy cô đơn dù không ở hoàn cảnh cô độc. Trong cuộc sống không ai không có lúc cảm thấy cô đơn. Có rất nhiều lý do khiến một người cảm thấy cô đơn. Cô đơn khi không có ai ở bên cạnh để chia sẻ niềm vui hay nỗi buồn, để nói những điều muốn nói, để được thông cảm hay ủi an. Cô đơn khi có một hay nhiều người bên cạnh nhưng chẳng ai hiểu mình, chẳng ai chịu lắng nghe những điều đang làm cho mình bận tâm, lo lắng, khổ sở hay buồn sầu…

Người mang tâm trạng cô đơn thường tìm cách chạy trốn tâm trạng này vì không dám đương đầu với nó. Có nhiều cách để một người ứng xử với trạng thái cô đơn của mình. Có những người chạy trốn cô đơn bằng cách tìm đến chỗ đông người, đi gặp một ai đó, hoặc nhắc điện thoại lên gọi tứ tung. Mục đích là để được trực tiếp giao lưu với người khác. Cũng có người tìm cách giao lưu với người khác một cách gián tiếp, như xem ti vi, phim ảnh có nhiều diễn viên sống động, đọc một cuốn truyện có nhiều nhân vật liên hệ với nhau, hoặc nghe nhạc, đọc sách để tìm xem các nhạc sĩ, ca sĩ, hay tác giả muốn chia xẻ với mình đều gì…

Đời sống ở Mỹ mang nặng tính cá nhân chủ nghĩa, gia đình ít con, cha mẹ và con cái thích chọn cho mình đời sống độc lập, nên khi con cái trưởng thành và cha mẹ đã già, mỗi người có một đời sống riêng. Cha mẹ, anh em, họ hàng ở xa nhau, hàng xóm thì chẳng mấy người quen biết nhau, nên người ta rất dễ cảm thấy cô đơn. Ngược lại có những người vì cô đơn nên không còn thiết tha với bất cứ việc gì, kể cả việc ăn uống. Những người già ở cô quạnh một mình thường rơi vào tình trạng này. Nhiều người rơi vào trạng thái trầm cảm và không ít người đã chọn cái chết và tự kết liễu đời mình. Khi quá cô đơn, có lẽ rất dễ thấy rằng sự có mặt của mình trên đời này không đáng kể, còn đang sống mà không khác chi đã chết rồi, nên thà lo 'trả nợ thần chết' cho xong còn hơn là kéo dài sự giằng co không biết đến bao giờ. Cô đơn là cho đi mà không có người nhận, muốn nhận mà chẳng có ai cho. Cô đơn là chờ đợi, mà cái mình chờ đợi chẳng xẩy đến, nên cô đơn là gần nhau mà vẫn cách biệt. Không phải cách biệt của không gian mà là cách biệt của cõi lòng. Bởi đó, vợ cô đơn bên chồng, con cái cô đơn bên cha mẹ.Càng gần nhau mà vẫn cách biệt thì nỗi cô đơn càng cay nghiệt. Ðã cay nghiệt mà vẫn phải gần nhau thì lại càng cô đơn hơn. Người ta gần nhau mà vẫn có thể xa nhau, vì trong cuộc đời, mỗi người đều có hai thế giới. Thế giới riêng trong cõi lòng và thế giới ngoài vũ trụ. Cũng có thể cô đơn vì người khác không muốn đến. Nhưng nỗi cô đơn bị người khác thờ ơ thì cay đắng hơn nỗi cô đơn tôi muốn sống lẻ loi một mình. Làm gì có cô đơn nếu có lời đáp trả. Không có lời đáp trả nên mới cứ phải chờ đợi. Ðợi chờ là khởi điểm của cô đơn. Ðợi chờ càng lâu thì nỗi cô đơn càng dài. Chờ đợi mà chẳng bao giờ xẩy tới thì nỗi cô đơn càng héo hắt. Làm gì có cô đơn nếu không có kiếm tìm. Làm gì phải kiếm tìm nếu đã đầy đủ. Vì thiếu vắng nên mới phải đi tìm. Khi sự thiếu vắng quá cay đắng thì nỗi cô đơn dẫn đến sự chết. Kẻ cô đơn là kẻ đi tìm niềm cảm thông nhưng chẳng gặp. Vì không gặp, nên họ đành trở về thế giới nội tâm cô lẻ của riêng mình. Vì thế giới nội tâm đó đang heo hút trống vắng, nên họ chỉ bắt gặp sự thiếu thốn ở đó mà thôi. Nhưng nỗi cô đơn bị người khác hờ hững thì cay đắng hơn. Cho đi phần đời của mình mà không được đáp trả nên mới xót xa khôn tả và cay đắng khôn vơi.

Tóm lại cần xét lại chính mình....Thực tế cho ta thấy, dù sống với những người thân yêu hay bạn bè chung quanh, nhưng giữa họ và ta luôn có những bức tường vô hình ngăn cách, khó lòng đạt tới sự thông giao. Bức tường ấy có thể là tính cách, sở thích, hiểu biết, quan điểm sống hay vị trí trong xã hội nơi mỗi người. Nhưng nhiều khi cũng do chính ta đã không mở lòng, không tin tưởng, không muốn đón nhận người khác, hoặc tự ban cho mình một vị trí đặc biệt nên tạo ra khoảng cách ngày càng xa với nhau. Những điều đó giống như những bức tường mà người khác khó lòng trèo qua được.

Ai cũng dễ tôn vinh cái tôi của mình, nên càng đặt mình trong tư thế phòng thủ, sợ bị coi thường, sợ bị lợi dụng. Do đó, không gian của ta càng ngày càng bị thu hẹp; sự tự nhiên và cởi mở càng bị giới hạn; tình tương thân tương trợ càng bị suy giảm. Càng cao danh vọng càng dễ tách biệt với mọi người, càng có được nhiều thứ lại càng xa lạ với mọi thứ. Nhiều khi ta tự tách biệt với mọi người rồi than vãn mình cô đơn, chẳng ai hiểu mình. Làm sao người khác có thể hiểu mình khi mình chưa sẵn lòng để hiểu người khác? Làm sao ta có thể đòi người khác mở rộng tâm hồn đang khi bản thân mình vẫn đóng kín? Dù có yêu thương ai nữa mà mình vẫn còn mang nặng cái tôi: vẫn ích kỷ và kiêu kỳ, vẫn dễ tự ái và tổn thương... thì ai có thể vượt qua bức tường lửa đó được? Họa hiếm lắm thì may ra mới có người đủ bản lãnh và thiện chí để vượt qua. Nói chung, khi vướng vào mặc cảm tự tôn hay tự ti, ta đều cảm thấy mình không thể hòa nhập cách bình đẳng để sống dễ thương và hồn nhiên với mọi người. Cứ thế ta mang theo nỗi cô đơn trong đời, tự mình làm nên số phận của mình, rồi lại buồn cho chính mình. Số phận sẽ khác đi nếu ta dám mở lòng ra, để cho mình thoải mái đến với mọi người với thái độ thân thương gần gũi và sẵn sàng cảm thông, chia sẻ, không chấp nhất và câu nệ những hình thức bề ngoài. Cuộc đời vẫn giang tay chào đón những ai không khép lòng mình lại. Dù đời có những chua cay nhưng không thiếu những ngọt bùi dành cho ta. Cả những chua cay cũng là hương vị cần phải có để ta biết nếm cảm cuộc đời cách thú vị.

Cô đơn/ một giá trị cho đời sống tinh thần

Có những nỗi cô đơn cách biệt, ngưng đọng, bế tắc, đớn đau, nghe như tâm hồn lịm chết giữa vực sâu cuộc đời, nhưng cũng có những nỗi cô đơn gần gũi, ngọt ngào, dù có “xa mặt nhưng không cách lòng”. Có những nỗi cô đơn thụ động, đành phải chịu vậy, nhưng cũng có những nỗi cô đơn chủ động vì ta muốn tạo một khoảng cách cần thiết cho đời mình. Có khi cô đơn như niềm đau tê tái cần phải loại trừ, nhưng có lúc cô đơn như chén đắng cần phải uống cạn, để có thể chữa lành một vết thương tâm hồn. Một người bình thường sẽ chấp nhận những nỗi cô đơn như một thứ gia vị cho cuộc sống, chứ không phải một thứ thuốc độc cần lảng tránh. Nếu biết cách chuyển hóa và thăng hoa cuộc sống mình, thì cô đơn cũng là một thứ cảm xúc thú vị cần trải nghiệm, một khoảng lặng thinh cần thiết cho đời sống nội tâm. Đôi khi, cùng với nỗi buồn, cô đơn là một chất xúc tác tạo nên những điều tốt đẹp và vĩ đại cho cuộc sống.

Tuy nhiên cần phân biệt điều này: sự tách biệt với những người xung quanh chưa hẳn đã dẫn tới sự cô đơn thực sự. Muốn trở thành một con người vững chãi thì ta hãy tập đối diện với sự cô đơn của mình với lòng thanh thản. Sự trốn chạy khỏi nỗi cô đơn có thể là một bệnh trạng tâm lý làm ta suy yếu, là một hình thức tránh né chính mình, không dám sống trọn vẹn là mình. Vì thế, nếu không đạt tới thực chất và định hướng của cô đơn, thì người ta dễ sử dụng cô đơn như một khoảng cách không gian để sống với những điều mình vui thích, hoặc như một khoảng cách thời gian để làm nên những công trình mình mong muốn, và cho đó là những điều quá tốt đẹp cho mọi người.

Cô đơn là chủ đề trong văn thơ ca nhạc. Đa số những nghệ sĩ cuối đời thường cô đơn! Tại sao có những nghệ sĩ khi trẻ thì hào quang sáng chói, mọi người bu quanh xưng tụng ngưỡng mộ, nhưng về già thì cô đơn. Nghệ sĩ có nhiều cám dỗ làm mờ trí óc và khi ánh hào quang lu mờ hay mất đi thì bị hụt hẫng nuối tiếc thuở vàng son nên đi tìm cái chết. Họ phải biết luật đào thải của sinh tồn: ngôi sao trước nổi lên rồi cũng có khi lịm tắt “ tre già măng mọc ” Mỗi ngôi sao có một vị trí khác nhau, một nét riêng của nó tùy người ngắm thích... Một viên ngọc trời đất sinh ra muốn sáng chói thì phải dũa phải mài... Một giọng hát được may mắn thiên phú không phải tốn tiền công sức dùi mài kinh sử trong những trường lớp, những con số, phương trình toán học, án văn chương, bài học hóc búa...vậy cái gì Trời cho làm vốn và trong một thời gian ngắn nổi danh, thì đừng ỷ y tự phụ, chảnh mà tài năng bị mai một đi, mà nên luyện tập thanh âm để sắc thái ngày càng phát triển trong tình thương nhún nhường làm cảm hóa lòng người thưởng ngoạn!

Tóm lại có nhiều trạng thái dẫn đến cô đơn như: -Người thân qua đời- Khi bị thất bại trong mọi lãnh vực tình cảm, công ăn việc làm- Bị phê phán, chỉ trích- Bị hiểu lầm -Chảnh, làm mọi người xa lánh, không muốn đến gần, tự cao tự phụ... Nhưng nếu có Tâm Linh thì mọi chuyện sẽ được vượt qua. Sự nhìn lại cô đơn mang giá trị tâm linh. Nếu sau cải vả bỏ đi thì không có tâm linh, nhưng biết xin lỗi & tạo công đức sửa mình thì đó là tâm linh. Trong cô đơn vẫn có sự tích cực hay tiêu cực. Vậy chúng ta chọn tích cực lắng nghe & sửa mình để được tâm linh. Vẫn có người yêu thương mình thì không cô đơn vì khi kêu lên một tiếng sẽ có nhiều người chạy đến chia sẻ, giúp đỡ... Đứng về góc độ tâm linh: Tình yêu là liều thuốc đặc trị cô đơn. Mỗi người đều có một bài học riêng. Nhìn qua không ai giống nhau, ai cũng cho mình là người khổ nhất, khó mấy thì mấy do mình chọn lựa... Có thể nhẹ nhất, nhưng nghĩ là nặng nhất. Thiêng Liêng thường cho ta bài học tùy sức. Qua bài học chung của trần thế: bài học người này là bài học của người khác và cần người xung quanh hỗ trợ. Theo qui luật quần tụ: bài học cần người hỗ trợ và ngược lại mình giúp người khác. Ngã càng cao thì tâm linh thấp, ngã càng thấp thì tâm linh lớn. Chúng ta không quỵ lụy người cao hơn mà cần hòa đồng chia sẻ. Muốn tình thương thì cần mở lòng. Nếu đối xử bằng trái tim thì sẽ nhận lại sự thương yêu. Nếu mở rộng dung lượng trái tim thì chắc chắn sẽ đón nhận nhiều yêu thương và không bao giờ cô đơn! Vậy cần nên sửa tánh, hạ mình, không nói xấu, ganh tị, giận hờn. Nếu mở rộng trái tim xấu thì không tốt. Nếu trái tim sạch thì nhận sạch. Làm con đường cho mọi người đi qua thì có được con đường tâm linh. Cô đơn là con quái vật tự tạo thức ăn cho mình, và khi không còn cô đơn đời sống sẽ được thăng hoa... Xin các bạn đến với nhau bằng bằng yêu thương & trái tim sạch...

- Kim cám ơn Tâm đã giới thiệu cho Kim được tham dự một buổi diễn thuyết thật hay và bổ ích, lần sau Tâm biết có những buổi diễn thuyết tương tự như vậy thì cho Kim biết nhé và Kim sẽ đến đón Tâm đi…

Nguyễn Ninh Thuận

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Kể từ khi tổ chức khủng bố Hamas tấn công vào Israel vào ngày 7 tháng 10 năm 2023, các vụ xung đột đẫm máu xảy tại Dải Gaza cho đến nay vẫn chưa kết thúc. Nhưng gần đây, cộng đồng quốc tế còn tỏ ra lo ngại nhiều hơn khi giao tranh giữa Israel và lực lượng dân quân Hezbollah ở Lebanon đang gia tăng. Bằng chứng là sau cái chết của thủ lĩnh Hamas Ismail Haniya và thủ lĩnh Hezbollah Hassan Nasrallah, tình hình càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Trong vài tháng qua, người dân Mỹ, dù muốn hay không muốn, cũng đã có nhiều cơ hội để nhìn về một bức tranh mà trong đó có quá nhiều sự tương phản. Những mảnh ghép từ hai tầm nhìn, hai chiến lược, hai mục đích hoàn toàn khác biệt đã dần dần rơi xuống, để lộ ra hai con đường hoàn toàn khác biệt cho người Mỹ lựa chọn. Dù có một bức màn đã rơi xuống (như nữ hoàng Oprah Winfrey đã ví von) cho một thuyền trưởng bước ra, trao lại cho người dân sự hy vọng, lòng tin, trách nhiệm, thì sâu thẳm bên trong chúng ta vẫn muốn biết, những giá trị thực của một triều đại đã mang lại. Từ đó, niềm tin sẽ được củng cố.
Bi hài kịch “ngoại giao cây tre”, với hoạt cảnh mới nhất là “cưỡng bức đặc xá”, đã giúp chúng ta nhận ra rằng, dẫu khác nhau nước lửa, “phóng sinh” và “hiến tế” vẫn có thể hội tụ ở ý nghĩa “triều cống” khi phải chiều lòng hai cường quốc ở hai đầu mút của hai hệ tư tưởng trái ngược nhau. Để đẹp lòng bên này thì phải nhẫn tâm “hiến tế”, mà để làm hài lòng bên kia thì phải diễn tuồng “phóng sinh” để có một dáng dấp khai phóng, cởi mở. “Chiến lược ngoại giao” này, phải chăng, là một trò chơi “ăn bù thua” mà, diễn đạt bằng ngôn ngữ toán học của Game Theory, là có tổng bằng không?
Trận Điện Biên Phủ kết thúc vào hôm 7 tháng 5 năm 1954. Bẩy mươi năm đã qua nhưng dư âm chiến thắng, nghe chừng, vẫn còn âm vang khắp chốn. Tại một góc phố, ở Hà Nội, có bảng tên đường Điện Biên Phủ – cùng với đôi dòng chú thích đính kèm – ghi rõ nét tự hào và hãnh diện: “Tên địa danh thuộc tỉnh Lai Châu, nơi diễn ra trận đánh quyết liệt của quân và dân ta tiêu diệt tập đoàn cứ điểm thực dân Pháp kéo dài 55 ngày đêm”.
JD Vance đã chứng tỏ một “đẳng cấp” khác, rất “Yale Law School” so với thương gia bán kinh thánh, giày vàng, đồng hồ vàng, Donald Trump. Rõ ràng, về phong cách, JD Vance đã tỏ ra lịch sự, tự tin – điều mà khi khởi đầu, Thống đốc Walz chưa làm được. Vance đã đạt đến “đỉnh” của mục tiêu ông ta muốn: lý trí, ôn hoà, tỉnh táo hơn Donald Trump. “Đẳng cấp” này đã làm cho Thống Đốc Tim Walz, người từng thẳng thắn tự nhận “không giỏi tranh luận” phải vài lần phải trợn mắt, bối rối trong 90 phút. Cho dù hầu như trong tất cả câu hỏi, ông đã làm rất tốt trong việc phản biện lại những lời nói dối của JD Vance, đặc biệt là câu chất vất hạ gục đối thủ ở phút cuối: “Trump đã thua trong cuộc bầu cử 2020 đúng không?” JD Vance đáp lại câu hỏi này của Tim Walz bằng hàng loạt câu trả lời né tránh và phủ nhận sự thật. Và dĩ nhiên, rất “slick.” “Trump đã chuyển giao quyền lực rất ôn hoà.” Cả thế giới có thể luận bàn về sự thật trong câu trả lời này.
Phải nhìn nhận rằng chuyến đi đầu tiên của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đến Mỹ đã được giới chức ngoại giao Việt Nam thu xếp để ông gặp được nhiều lãnh đạo, xem như xã giao ra mắt để hợp tác, hỗ trợ Việt Nam trong nhiều lãnh vực trong tương lai. Bài diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc chỉ lặp lại các chính sách đối ngoại của Hà Nội, nên không được truyền thông quốc tế chú ý nhiều như các diễn văn của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky và Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu, là đại diện cho những quốc gia trực tiếp liên can đến các xung đột ở Trung Đông, ở Ukraine mà có nguy cơ lan rộng ra thế giới. Ông Lâm mới lên làm chủ tịch nước kiêm tổng bí thư Đảng Cộng sản được vài tháng, sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng qua đời, nên ông muốn dịp đến Liên Hiệp Quốc là dịp để thể hiện vai trò lãnh đạo của mình và nhấn mạnh đến chính sách ngoại giao du dây của Hà Nội.
Sự bất mãn lan rộng với các hệ thống thuộc chủ nghĩa tư bản hiện tại đã khiến nhiều quốc gia, giàu và nghèo, tìm kiếm các mô hình kinh tế mới. Những người bảo vệ nguyên trạng tiếp tục coi Hoa Kỳ là một ngôi sao sáng, nền kinh tế của nước này vượt xa châu Âu và Nhật Bản, các thị trường tài chính của nước này vẫn chiếm ưu thế hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, công dân của nước này cũng bi quan như bất kỳ công dân nào ở phương Tây.
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.