Hôm nay,  

Tâm Linh & Cô Đơn

08/03/201400:00:00(Xem: 9556)
- Alo Kim, sao bạn có khỏe không?

- Tâm đó há! Kim vẫn khỏe như con bò nằm nghỉ nhai cỏ, không phải kéo xe đâu! Có chuyện gì vậy mà Tâm gọi Kim khuya vậy?

- Tâm định rủ Kim tối thứ Bảy này để sắp xếp thời giờ đi nghe một buổi diễn thuyết hay lắm…

- Tâm nói hay là hay rồi, Kim hoàn toàn tin vào bồ tèo nên quyết định đi liền không do dự…Được biết Tâm có trở ngại lái xe ban đêm, nên Kim xung phong đến đón Tâm lúc 7 giờ tối thứ Bảy này nhé! Hẹn gặp Tâm sau & có nhiều chuyện để chúng mình tâm sự sau… Thôi khuya rồi chúc bạn ngon giấc!

Ngày giờ như ngựa chạy tên bay…Thế rồi tối Thứ Bảy đến trong sự nôn nóng chờ đợi và chúng tôi vui vẻ sánh bước vào hội trường đầy ắp người và người để lắng nghe bài diễn thuyết “ Tâm Linh & Cô Đơn ”. Trên bục giảng, giọng của thuyết trình viên đầm ấm đưa mọi người vào bài giảng một cách say mê…

…Cuộc sống con người quá sức phong phú và đa dạng… Có nhiều quan hệ bên ngoài xã hội, đồng nghiệp, bạn bè & bên trong cho bản thân gia đình cha mẹ, anh em, chồng vợ, con cái… Chính những cảm xúc hình thành nên nền tản gia đình và tạo nên nhân cách con người qua cảm xúc, yêu thương. Vui cười, vồn vã, lạnh lùng, xu nịnh luồn cúi… bộc lộ ra bên ngoài. Nhưng có những cảm xúc sâu thẳm không bộc lộ mà cố đè nén khép kín bên trong con người, đó là Cô Đơn. Vậy cô đơn là gì?

- Cô đơn không có nghĩa là ở một mình. Cô đơn là một vấn đề tâm linh và phải được giải quyết bằng những phương pháp tâm linh. Cô độc có nghĩa về thể lý, chỉ trạng thái một mình, không có ai khác ở chung quanh. Cô đơn là trạng thái tinh thần, cảm thấy bị tách biệt khỏi mọi người, dù đang ở một mình hay đang có nhiều người chung quanh. Vì thế người ta thường phân biệt là người sống cô độc chưa chắc đã cảm thấy cô đơn và ngược lại, có người vẫn cảm thấy cô đơn dù không ở hoàn cảnh cô độc. Trong cuộc sống không ai không có lúc cảm thấy cô đơn. Có rất nhiều lý do khiến một người cảm thấy cô đơn. Cô đơn khi không có ai ở bên cạnh để chia sẻ niềm vui hay nỗi buồn, để nói những điều muốn nói, để được thông cảm hay ủi an. Cô đơn khi có một hay nhiều người bên cạnh nhưng chẳng ai hiểu mình, chẳng ai chịu lắng nghe những điều đang làm cho mình bận tâm, lo lắng, khổ sở hay buồn sầu…

Người mang tâm trạng cô đơn thường tìm cách chạy trốn tâm trạng này vì không dám đương đầu với nó. Có nhiều cách để một người ứng xử với trạng thái cô đơn của mình. Có những người chạy trốn cô đơn bằng cách tìm đến chỗ đông người, đi gặp một ai đó, hoặc nhắc điện thoại lên gọi tứ tung. Mục đích là để được trực tiếp giao lưu với người khác. Cũng có người tìm cách giao lưu với người khác một cách gián tiếp, như xem ti vi, phim ảnh có nhiều diễn viên sống động, đọc một cuốn truyện có nhiều nhân vật liên hệ với nhau, hoặc nghe nhạc, đọc sách để tìm xem các nhạc sĩ, ca sĩ, hay tác giả muốn chia xẻ với mình đều gì…

Đời sống ở Mỹ mang nặng tính cá nhân chủ nghĩa, gia đình ít con, cha mẹ và con cái thích chọn cho mình đời sống độc lập, nên khi con cái trưởng thành và cha mẹ đã già, mỗi người có một đời sống riêng. Cha mẹ, anh em, họ hàng ở xa nhau, hàng xóm thì chẳng mấy người quen biết nhau, nên người ta rất dễ cảm thấy cô đơn. Ngược lại có những người vì cô đơn nên không còn thiết tha với bất cứ việc gì, kể cả việc ăn uống. Những người già ở cô quạnh một mình thường rơi vào tình trạng này. Nhiều người rơi vào trạng thái trầm cảm và không ít người đã chọn cái chết và tự kết liễu đời mình. Khi quá cô đơn, có lẽ rất dễ thấy rằng sự có mặt của mình trên đời này không đáng kể, còn đang sống mà không khác chi đã chết rồi, nên thà lo 'trả nợ thần chết' cho xong còn hơn là kéo dài sự giằng co không biết đến bao giờ. Cô đơn là cho đi mà không có người nhận, muốn nhận mà chẳng có ai cho. Cô đơn là chờ đợi, mà cái mình chờ đợi chẳng xẩy đến, nên cô đơn là gần nhau mà vẫn cách biệt. Không phải cách biệt của không gian mà là cách biệt của cõi lòng. Bởi đó, vợ cô đơn bên chồng, con cái cô đơn bên cha mẹ.Càng gần nhau mà vẫn cách biệt thì nỗi cô đơn càng cay nghiệt. Ðã cay nghiệt mà vẫn phải gần nhau thì lại càng cô đơn hơn. Người ta gần nhau mà vẫn có thể xa nhau, vì trong cuộc đời, mỗi người đều có hai thế giới. Thế giới riêng trong cõi lòng và thế giới ngoài vũ trụ. Cũng có thể cô đơn vì người khác không muốn đến. Nhưng nỗi cô đơn bị người khác thờ ơ thì cay đắng hơn nỗi cô đơn tôi muốn sống lẻ loi một mình. Làm gì có cô đơn nếu có lời đáp trả. Không có lời đáp trả nên mới cứ phải chờ đợi. Ðợi chờ là khởi điểm của cô đơn. Ðợi chờ càng lâu thì nỗi cô đơn càng dài. Chờ đợi mà chẳng bao giờ xẩy tới thì nỗi cô đơn càng héo hắt. Làm gì có cô đơn nếu không có kiếm tìm. Làm gì phải kiếm tìm nếu đã đầy đủ. Vì thiếu vắng nên mới phải đi tìm. Khi sự thiếu vắng quá cay đắng thì nỗi cô đơn dẫn đến sự chết. Kẻ cô đơn là kẻ đi tìm niềm cảm thông nhưng chẳng gặp. Vì không gặp, nên họ đành trở về thế giới nội tâm cô lẻ của riêng mình. Vì thế giới nội tâm đó đang heo hút trống vắng, nên họ chỉ bắt gặp sự thiếu thốn ở đó mà thôi. Nhưng nỗi cô đơn bị người khác hờ hững thì cay đắng hơn. Cho đi phần đời của mình mà không được đáp trả nên mới xót xa khôn tả và cay đắng khôn vơi.

Tóm lại cần xét lại chính mình....Thực tế cho ta thấy, dù sống với những người thân yêu hay bạn bè chung quanh, nhưng giữa họ và ta luôn có những bức tường vô hình ngăn cách, khó lòng đạt tới sự thông giao. Bức tường ấy có thể là tính cách, sở thích, hiểu biết, quan điểm sống hay vị trí trong xã hội nơi mỗi người. Nhưng nhiều khi cũng do chính ta đã không mở lòng, không tin tưởng, không muốn đón nhận người khác, hoặc tự ban cho mình một vị trí đặc biệt nên tạo ra khoảng cách ngày càng xa với nhau. Những điều đó giống như những bức tường mà người khác khó lòng trèo qua được.

Ai cũng dễ tôn vinh cái tôi của mình, nên càng đặt mình trong tư thế phòng thủ, sợ bị coi thường, sợ bị lợi dụng. Do đó, không gian của ta càng ngày càng bị thu hẹp; sự tự nhiên và cởi mở càng bị giới hạn; tình tương thân tương trợ càng bị suy giảm. Càng cao danh vọng càng dễ tách biệt với mọi người, càng có được nhiều thứ lại càng xa lạ với mọi thứ. Nhiều khi ta tự tách biệt với mọi người rồi than vãn mình cô đơn, chẳng ai hiểu mình. Làm sao người khác có thể hiểu mình khi mình chưa sẵn lòng để hiểu người khác? Làm sao ta có thể đòi người khác mở rộng tâm hồn đang khi bản thân mình vẫn đóng kín? Dù có yêu thương ai nữa mà mình vẫn còn mang nặng cái tôi: vẫn ích kỷ và kiêu kỳ, vẫn dễ tự ái và tổn thương... thì ai có thể vượt qua bức tường lửa đó được? Họa hiếm lắm thì may ra mới có người đủ bản lãnh và thiện chí để vượt qua. Nói chung, khi vướng vào mặc cảm tự tôn hay tự ti, ta đều cảm thấy mình không thể hòa nhập cách bình đẳng để sống dễ thương và hồn nhiên với mọi người. Cứ thế ta mang theo nỗi cô đơn trong đời, tự mình làm nên số phận của mình, rồi lại buồn cho chính mình. Số phận sẽ khác đi nếu ta dám mở lòng ra, để cho mình thoải mái đến với mọi người với thái độ thân thương gần gũi và sẵn sàng cảm thông, chia sẻ, không chấp nhất và câu nệ những hình thức bề ngoài. Cuộc đời vẫn giang tay chào đón những ai không khép lòng mình lại. Dù đời có những chua cay nhưng không thiếu những ngọt bùi dành cho ta. Cả những chua cay cũng là hương vị cần phải có để ta biết nếm cảm cuộc đời cách thú vị.

Cô đơn/ một giá trị cho đời sống tinh thần

Có những nỗi cô đơn cách biệt, ngưng đọng, bế tắc, đớn đau, nghe như tâm hồn lịm chết giữa vực sâu cuộc đời, nhưng cũng có những nỗi cô đơn gần gũi, ngọt ngào, dù có “xa mặt nhưng không cách lòng”. Có những nỗi cô đơn thụ động, đành phải chịu vậy, nhưng cũng có những nỗi cô đơn chủ động vì ta muốn tạo một khoảng cách cần thiết cho đời mình. Có khi cô đơn như niềm đau tê tái cần phải loại trừ, nhưng có lúc cô đơn như chén đắng cần phải uống cạn, để có thể chữa lành một vết thương tâm hồn. Một người bình thường sẽ chấp nhận những nỗi cô đơn như một thứ gia vị cho cuộc sống, chứ không phải một thứ thuốc độc cần lảng tránh. Nếu biết cách chuyển hóa và thăng hoa cuộc sống mình, thì cô đơn cũng là một thứ cảm xúc thú vị cần trải nghiệm, một khoảng lặng thinh cần thiết cho đời sống nội tâm. Đôi khi, cùng với nỗi buồn, cô đơn là một chất xúc tác tạo nên những điều tốt đẹp và vĩ đại cho cuộc sống.

Tuy nhiên cần phân biệt điều này: sự tách biệt với những người xung quanh chưa hẳn đã dẫn tới sự cô đơn thực sự. Muốn trở thành một con người vững chãi thì ta hãy tập đối diện với sự cô đơn của mình với lòng thanh thản. Sự trốn chạy khỏi nỗi cô đơn có thể là một bệnh trạng tâm lý làm ta suy yếu, là một hình thức tránh né chính mình, không dám sống trọn vẹn là mình. Vì thế, nếu không đạt tới thực chất và định hướng của cô đơn, thì người ta dễ sử dụng cô đơn như một khoảng cách không gian để sống với những điều mình vui thích, hoặc như một khoảng cách thời gian để làm nên những công trình mình mong muốn, và cho đó là những điều quá tốt đẹp cho mọi người.

Cô đơn là chủ đề trong văn thơ ca nhạc. Đa số những nghệ sĩ cuối đời thường cô đơn! Tại sao có những nghệ sĩ khi trẻ thì hào quang sáng chói, mọi người bu quanh xưng tụng ngưỡng mộ, nhưng về già thì cô đơn. Nghệ sĩ có nhiều cám dỗ làm mờ trí óc và khi ánh hào quang lu mờ hay mất đi thì bị hụt hẫng nuối tiếc thuở vàng son nên đi tìm cái chết. Họ phải biết luật đào thải của sinh tồn: ngôi sao trước nổi lên rồi cũng có khi lịm tắt “ tre già măng mọc ” Mỗi ngôi sao có một vị trí khác nhau, một nét riêng của nó tùy người ngắm thích... Một viên ngọc trời đất sinh ra muốn sáng chói thì phải dũa phải mài... Một giọng hát được may mắn thiên phú không phải tốn tiền công sức dùi mài kinh sử trong những trường lớp, những con số, phương trình toán học, án văn chương, bài học hóc búa...vậy cái gì Trời cho làm vốn và trong một thời gian ngắn nổi danh, thì đừng ỷ y tự phụ, chảnh mà tài năng bị mai một đi, mà nên luyện tập thanh âm để sắc thái ngày càng phát triển trong tình thương nhún nhường làm cảm hóa lòng người thưởng ngoạn!

Tóm lại có nhiều trạng thái dẫn đến cô đơn như: -Người thân qua đời- Khi bị thất bại trong mọi lãnh vực tình cảm, công ăn việc làm- Bị phê phán, chỉ trích- Bị hiểu lầm -Chảnh, làm mọi người xa lánh, không muốn đến gần, tự cao tự phụ... Nhưng nếu có Tâm Linh thì mọi chuyện sẽ được vượt qua. Sự nhìn lại cô đơn mang giá trị tâm linh. Nếu sau cải vả bỏ đi thì không có tâm linh, nhưng biết xin lỗi & tạo công đức sửa mình thì đó là tâm linh. Trong cô đơn vẫn có sự tích cực hay tiêu cực. Vậy chúng ta chọn tích cực lắng nghe & sửa mình để được tâm linh. Vẫn có người yêu thương mình thì không cô đơn vì khi kêu lên một tiếng sẽ có nhiều người chạy đến chia sẻ, giúp đỡ... Đứng về góc độ tâm linh: Tình yêu là liều thuốc đặc trị cô đơn. Mỗi người đều có một bài học riêng. Nhìn qua không ai giống nhau, ai cũng cho mình là người khổ nhất, khó mấy thì mấy do mình chọn lựa... Có thể nhẹ nhất, nhưng nghĩ là nặng nhất. Thiêng Liêng thường cho ta bài học tùy sức. Qua bài học chung của trần thế: bài học người này là bài học của người khác và cần người xung quanh hỗ trợ. Theo qui luật quần tụ: bài học cần người hỗ trợ và ngược lại mình giúp người khác. Ngã càng cao thì tâm linh thấp, ngã càng thấp thì tâm linh lớn. Chúng ta không quỵ lụy người cao hơn mà cần hòa đồng chia sẻ. Muốn tình thương thì cần mở lòng. Nếu đối xử bằng trái tim thì sẽ nhận lại sự thương yêu. Nếu mở rộng dung lượng trái tim thì chắc chắn sẽ đón nhận nhiều yêu thương và không bao giờ cô đơn! Vậy cần nên sửa tánh, hạ mình, không nói xấu, ganh tị, giận hờn. Nếu mở rộng trái tim xấu thì không tốt. Nếu trái tim sạch thì nhận sạch. Làm con đường cho mọi người đi qua thì có được con đường tâm linh. Cô đơn là con quái vật tự tạo thức ăn cho mình, và khi không còn cô đơn đời sống sẽ được thăng hoa... Xin các bạn đến với nhau bằng bằng yêu thương & trái tim sạch...

- Kim cám ơn Tâm đã giới thiệu cho Kim được tham dự một buổi diễn thuyết thật hay và bổ ích, lần sau Tâm biết có những buổi diễn thuyết tương tự như vậy thì cho Kim biết nhé và Kim sẽ đến đón Tâm đi…

Nguyễn Ninh Thuận

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.