Hôm nay,  

Công Hay Tội?

09/03/201400:54:00(Xem: 10891)
Công Hay Tội?

Le Nguyen

Cuộc cách mạng mùa thu năm 1989 nổ ra ở Đông Âu, khởi đầu từ Ba Lan (Poland) lan sang Hung Gia Lợi (Hungary), Đông Đức (East Germany), Bảo Gia Lợi ( Bungary), Tiệp Khắc (Czechoslovakia), Lỗ Ma Ni (Rumany)... đánh sập hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa và tiến thẳng vào tận sào huyệt Liên Bang Xô Viết (Soviet Union) được những người cộng sản ra rả ca ngợi là thành trì xã hội chủ nghĩa. Sự sụp đổ thảm hại đó, cũng chính là lúc khẩu hiệu “chủ nghĩa Marx-Lenin bách chiến bách thắng” được cộng sản Việt Nam âm thầm hạ xuống và nhanh chóng biến khỏi đời sống của người dân Việt Nam.

Thế nhưng, khi tư tưởng xã hội chủ nghĩa hoang tưởng kia không còn lừa bịp được ai nữa trừ những kẻ có vấn đề về tư duy cùng với những tên cộng sản mê cuồng và cộng sản giả vờ. Chúng lại dồn nổ lực, tập trung vào “tuyên truyền giáo dục” cái được gọi là đạo đức Hồ Chí Minh, là sự lãnh đạo sáng suốt tài tình của đảng cộng sản Việt Nam nhằm lừa mị nhân dân để bảo vệ vị thế độc quyền quyền lực, cai trị đất nước của đảng cộng sản.
Đã có nhiều nhân chứng sống lẫn các nhà nghiên cứu lịch sử đảng cộng sản Việt Nam chỉ ra cái được gọi là đạo đức, là tài tình sáng suốt... để ca ngợi công lao đánh đuổi thực dân, đế quốc giành lại độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ cho dân tộc Việt Nam mà đa phần đều đơm đặt, thêu dệt ngụy tạo nhiều hơn sự thật Lịch sử về huyền thoại ông Hồ Chí Minh, về đảng lãnh đạo trong cuộc kháng chiến được các bồi bút gọi là thần thánh đánh Tây, đuổi Nhật, chống Mỹ cuối cùng cũng được nhiều người chứng minh đúng là huyền thoại...

Nếu lật lại từng trang sử cũ với cái đầu tỉnh táo khách quan và bình tâm lắng nghe những nhân chứng may mắn sống sót trong các biến cố trọng đại của lịch sử kể lại, hẳn chúng ta sẽ nhận ra, Việt Nam đã có nhiều cơ hội tránh được đổ máu không cần thiết cho việc giành lấy nền độc lập của dân tộc, không cần đến ông Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam. Tiếc rằng lịch sử là lịch sử nên phải đành chấp nhận nó như bài học lịch sử cho hiện tại nhằm định ra hướng đi cho tương lai bởi “không ai thay đổi được quá khứ nhưng chúng ta có thể thay đổi tương lai bằng hành động của ngày hôm nay”.

Do đó đọc, lật lại từng trang sử cũ tìm hiểu, nghe những nhân chứng sống trong cuộc nói lên sự thật lịch sử, không với mục đích đả phá huyền thoại hoặc do thù ghét phe đảng nào mà chỉ mong muốn tìm kiếm sự thật, trả lại sự thật cho lịch sử để có hành động cụ thể từ ngày hôm nay, cho một ngày mai thay đổi tốt đẹp hơn cho dân tộc Việt Nam. Tìm kiếm sự thật lịch sử không ngoài mục đích làm hành trang, định hướng đi tương lai cho dân tộc Việt Nam để lịch sử đừng tái diễn bởi “lịch sử không dạy mà lịch sử trừng phạt những ai không học bài học lịch sử!”

Trong chiều hướng đó, chúng ta cùng nhau đọc, tìm hiểu hệ thống hóa những dấu mốc, sự kiện lịch sử có thật để trả lại sự thật cho lịch sử, để vạch trần những điều bịa đặt thêm thắt, sửa đổi lịch sử nhằm phục vụ cho mục đích gian manh chính trị cho cái gọi là công lao đánh đuổi đế quốc thực dân, là nhờ có bác, đảng nên Việt Nam mới được như ngày hôm nay?

Trong việc tìm hiểu, nghiền ngẫm lịch sử để nhận diện rõ hơn lịch sử cận đại liên quan đến ông Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam và để đi tìm sự thật, chúng ta có thể bỏ qua giai đoạn toàn dân đứng lên đánh đuổi ngoại xâm ngay từ khi giặc pháp nổ phát súng đầu tiên xâm lăng nước ta, cho đến giai đoạn đảng cộng sản núp bóng dân tộc cùng với các lực lượng dân tộc kháng chiến chống Pháp.

Từ gốc độ đó, chúng ta sẽ khởi đầu từ dấu mốc cách mạng tháng 8 năm 1945 bởi thời điểm này có hàng loạt sự kiện lịch sử trọng đại có liên quan trực tiếp đến vai trò của ông Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt nam, thời điểm mà cộng sản thường dùng để kể công “cướp chính quyền trong tay giặc Pháp, giặc Nhật?”

Nhìn về quá khứ, về cách mạng tháng 8/1945 có một số nhân chứng sống chứng kiến trong thời điểm đó kể rằng sự thật ở thời điểm này “giặc Pháp” số chạy về Pháp, số đang nằm trong nhà tù Việt Nam, còn “giặc Nhật” từ đầu năm 1945 đã trao trả độc lập cho triều đình nhà Nguyễn và vua Bảo đại chỉ định học giả Trần trọng Kim thành lập chính phủ Việt nam. Chính phủ này do thủ tướng Trần Trọng kim lãnh đạo ra mắt ngày 17/04/1945 và bốn tháng sau cách mạng tháng 8 nổ ra đã được nhân chứng, hiện còn sống Nhạc sĩ Tô Hải, tác giả “Nhật Ký Của Một Thằng Hèn” kể lại như sau:

“Cuộc cướp chính quyền từ trong tay Nhật, Pháp không hề có, mà đơn giản chỉ là một cuộc lật đổ một chính quyền còn non trẻ của chính phủ Trần trọng Kim với những nhân vật tham gia nội các nổi tiếng cả trong lẫn ngoài nước.
Chính phủ này cầm quyền được một trăm hai mươi sáu ngày với một đất nước hoang tàn, chết đói đầy đường, không một đồng trong ngân quỹ, 95% người dân không biết chữ, được thế giới công nhận và sau này những nhân vật tham gia chính phủ Trần Trọng Kim đa số vẫn được mời vào “Chính phủ liên hiệp”… Vậy vì sao mà nhà nước Cộng sản Việt Nam phải “lờ tịt” cái sự thật đó đi?

Có phải chính những người như bọn tớ, tay cầm cờ vàng ba sọc đỏ, miệng hát “Này thanh niên ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng”, kéo nhau đi biểu tình ủng hộ chính phủ Trần trọng Kim đã “quáng gà cách mạng” nên giữa chừng a-dua, khi thấy người ta trương lên lá cờ đỏ sao vàng to tướng và phát cho chúng tớ những lá cờ đỏ nhỏ bằng cái quạt mo là những người đã được “Đảng giáo dục” và “đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống” để thực hiện nghị quyết của Đại Hội Quốc Dân, họp ở Tân Trào?

Không, hoàn toàn không! Chúng tớ lúc ấy, dù bất cứ ai, bất cứ tổ chức nào đưa ra đường lối chống Pháp, hứa hẹn Độc Lâp-Tự Do cho đất nước, chúng tớ đều sẵn sàng đi theo! Đến cựu Hoàng Bảo Đại cũng còn tuyên bố: “Làm dân một nước tự do còn hơn là làm vua một nước nô lệ” nữa là!”

Cũng trong năm 1945 ông Hồ Chí Minh với nhiều thủ đoạn chính trị học được từ đàn anh Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, đại diện chính phủ liên hiệp qui tụ nhiều nhân sĩ, trí thức đảng phái quốc gia, đọc tuyên ngôn độc lập vào ngày 2/9 ở Hà Nội và sau đó ngày 11/11 ông Hồ Chí Minh tuyên bố giải tán đảng cộng sản Đông Dương, thành lập hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác nhằm che dấu tung tích cộng sản.

Sang năm 1946 ông Hồ Chí Minh đại diện chính phủ liên hiệp dẫn phái đoàn đi pháp thương thuyết nhưng bất thành vì nhiều lý do nhưng lý do chính có lẽ do chính phủ Pháp nhận biết gốc cộng sản của Hồ Chí Minh? Nhưng sau đó khi phái đoàn của cái gọi là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trở về Việt Nam, ông Hồ Chí Minh ở lại tìm đến nhà Marius Moutet, bộ trưởng thuôc địa Pháp, tự quyết định thỏa hiệp với thực dân Pháp, ký hiệp ước Fontainebleau vào ngày 14/09/1946 tạo điều kiện cho Pháp trở lại Việt Nam!

Hai năm sau vào ngày 5/6/1948 Pháp long trọng ký kết trao trả độc lập cho Việt Nam qua đại diện Cao Ủy Pháp ở Đông Dương là ông Emile Bollaert với ông Nguyễn Văn Xuân thủ tướng Chính Phủ Trung Ương Lâm Thời Việt Nam dưới sự chứng kiến của Quốc trưởng Bảo Đại và hai quốc gia Pháp- Việt đồng công bố bản thông báo chung với nội dung: “Nước Pháp long trọng công nhận nền độc lập của Việt Nam; Việt Nam được tự do thực hiện nền thống nhất của mình."

Có thể nói những biến chuyển chính trị tích cực, thuận lợi cho Việt nam vừa kể, đa phần do cuộc chiến đẩm máu của thế chiến thứ hai đã chấm dứt với sự ra đời của liên hiệp quốc thay thế hội quốc liên được thành lập sau thế chiến thứ nhất, không thực hiện được mục đích: “Chúng tôi, những dân tộc của Liên Hợp Quốc, quyết tâm cứu những thế hệ mai sau khỏi thảm họa chiến tranh..." làm áp lực buộc các đế quốc, thực dân trao trả độc lập cho các nước bị trị tái lập lại trật tự mới cho thế giới.

Kể từ đây chính sách thực dân của các nước Anh, Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hoà Lan, Bỉ... xem như đã cáo chung. Trong giai đọan này, có gần một trăm thuộc địa không cần làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, không cần hô hào toàn quốc kháng chiến, không cần hô hào chống Mỹ cứu nước, không cần đổ nhiều máu cho nền độc lập dân tộc vẫn giành được độc lập. Ở Á Châu có Ấn Độ, Miến Điện, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân. Các nước này không cần huênh hoang đánh thắng thực dân, đế quốc sừng sỏ vẫn giành được độc lập chủ quyền cho tổ quốc họ!

Việt Nam ta cũng đã có ít nhất hai cơ hội không cần đổ máu để giành lại độc lập tự do cho dân tộc từ tay phát xít Nhật, thực dân Pháp và ngay cả tránh được cuộc chiến tranh phi nghĩa được gọi là “thần thánh chống Mỹ cứu nước?”Thế nhưng, tất cả cơ hội đều bị ông Hồ Chí Minh thành viên của cộng sản quốc tế, khoát áo dân tộc đưa dân tộc, biến dân tộc Việt Nam thành những con thiêu thân lao vào lửa dữ cho mưu đồ nhuộm đỏ toàn thế giới của các tên đồ tể khát máu, các tên tội phạm chống nhân loại là Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông.

Như thế sự thật lịch sử đã chỉ ra, Việt Nam đã được Phát xít Nhật trao trả độc lập ngày 17/04/1945, được thực dân Pháp trao trả độc lập ngày 05/06/1948 nằm trong phong trào các dân tộc bị trị giành độc lập theo con đường hòa bình không đổ máu sau thế chiến thứ hai và tất cả dân tộc bị trị thời gian đó đều lần lượt giành được độc lập dân tộc thành công theo con đường hòa bình, ngoại trừ Việt Nam.

Thế thì tại Sao Việt Nam không giành được độc lập tự chủ theo con đường hòa bình như các dân tộc có cùng hoàn cảnh bị trị dưới gót chân xâm lược của thực dân, đế quốc mà phải sử dụng bạo lực cách mạng không cần thiết cho nền độc lập của mình?

Đến hôm nay sự thật lịch sử lần lượt được phơi bày nên không có gì khó hiểu, khá đơn giản để hiểu rằng “tại sao”? Nguyên nhân chính bởi ông Hồ Chí Minh được đào tạo, huấn luyện trở thành tên tình báo chuyên nghiệp của cộng sản quốc tế đặc trách vùng Đông Á gồm Trung Hoa, Thái Lan, Việt Nam... Ông ta thay hình đổi dạng mang nhiều vỏ bọc, nhiều tên giả của một tên tình báo siêu hạng như “ Lý Thụy, Thầu Chính, Tống Văn Sơ, Lyn, thiếu tá Hồ Quang trong bát lộ quân, Già Thu...” nhận tiền và hành động theo chỉ thị của cộng sản quốc tế. Nói cách khác ông Hồ Chí Minh là tay sai của cộng sản quốc tế nên không muốn Việt Nam giành độc lập theo con đường hoà bình, không muốn Việt Nam độc lập nằm ngoài quỹ đạo cộng sản nên ông ta phá đổ nhiều cơ hội giành độc lập trong hoà bình của dân tộc.

Đọc lại lịch sử khách quan chúng ta sẽ thấy ông Hồ Chí Minh bằng thủ đoạn tàn độc thanh tóan, thủ tiêu các nhà cách mạng, lãnh tụ các đảng phái, các lực lượng dân tộc, những nhân sĩ yêu nước có tinh thần quốc gia như ông Khái Hưng của Tự Lực Văn Đoàn, ông Trương Tử Anh của Đại Việt Quốc Dân Đảng, ông Lý Đông A của Việt Nam Quang Phục Hội, Đức Huỳnh Phú Sỗ giáo chủ Phật Giáo Hòa Hảo của Dân Xã Đảng... với mục đích, nhiệm vụ duy nhất, là cố tình dẫn dắt lèo lái, tạo điều kiện cho cộng sản nhuộm đỏ Việt nam qua hai cuộc chiến tranh kháng chiến chống Pháp 1945-1954 và cuộc chiến Bắc –Nam 1954-1975 với biết bao xương máu, sinh mạng của thanh niên Việt Nam, nhân dân Việt nam.

Không những thế, ông Hồ Chí Minh còn sản sinh ra những tên đồ đệ mạt hạng mang tư tưởng nô lệ, tay sai ngoại bang lẫn phản động cực kỳ qua các tài liệu học tập giáo dục tuyên truyền trong nhân dân điển hình là Tố Hữu ca ngợi các tên đồ tể chống nhân loại đến tận trời:

“Bác Mao ta ở đâu xa
Bác Hồ ta đó chính là bác Mao...
....Giết giết nữa bàn tay không phút nghỉ....
Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong
Cho đảng bền lâu thờ Mao chủ tịch,thờ Stalin bất diệt
Ông Stalin ơi, ông stalin ơi
Hỡi ơi ông mất! Đất trời có không?...”

Ngoài các câu thơ, bài thơ nâng bi tài tình, sáng suốt của Tố Hữu được giảng dạy cho các đảng viên trong các “lớp rèn quân chỉnh huấn”, nó còn được đảng trân trọng đưa vào sách giáo khoa dạy trong các trường học cho nhiều thế hệ trẻ em Việt nam. Không dừng lại ở đó trong các tài liệu lẫn sinh hoạt nội bộ đảng cộng sản còn có những lời nói thể hiện bản chất tay sai cộng sản quốc tế của các thế hệ lãnh đạo đảng cộng sản kế tục Hồ Chí Minh, nổi bật nhất có Lê Duẩn tuyên bố như sau: “ Miền Nam chúng tôi sẽ chống Mỹ tới cùng và chúng tôi giữ vững tinh thần quốc tế vô sản... Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, đánh cho xã hội chủ nghĩa và cho cả nhân loại...”

Không kể thế hệ lãnh đạo cộng sản đã qua như Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Lê Duẩn... thể hiện bản chất tay sai, bán nước đáng xấu hổ mà ngay cả thế hệ lãnh đạo đảng cộng sản hiện tại từ ông tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, thứ trưởng ngoại giao Hồ Xuân Sơn... khi “giao thiệp” với đàn anh Trung Cộng kẻ tuyên bố “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” tên lu loa mười 16 vàng, 4 tốt nuốt dần đất liền biên giới đến biển đảo xa xôi ở Biển Đông nhưng tất cả họ đều khúm núm, khom lưng phát biểu:

“...nhân dân Việt Nam luôn luôn ghi nhớ với lòng biết ơn sâu sắc sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của đảng, chính phủ và nhân dân Trung Quốc giành cho nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây và sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay...”
Qua những cột mốc, những thời khắc lịch sử của các năm 1945, 1948, 1954, 1975...cùng với việc làm không thể che dấu của ông Hồ Chí Minh, của thế hệ lãnh đạo kế tục đảng cộng sản Việt Nam và nhìn vào hiện trạng thảm hại của đất nước Việt Nam ngày hôm nay, biết rằng còn nhiều thiếu sót chưa đầy đủ về sự thật lịch sử.

Dù vậy, với nhận xét khách quan không qua lăng kính hư cấu tưởng tượng, không mang lòng thù hận ông Hồ Chí Minh, không căm ghét đảng cộng sản Việt Nam. Theo bạn, ông Hồ Chí Minh, đảng cộng sản có công hay có tội trong hai cuộc chiến kháng chiến chống pháp 1945-1954, cuộc chiến đấu thần thánh chống Mỹ cứu nước 1954-1975 và những cột mốc, sự kiện lịch sử vừa nêu có phải là ngụy tạo chứng cứ, sửa đổi lịch sử nhằm nói xấu huyền thoại ông Hồ Chí Minh, bôi nhọ sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của đảng cộng sản Việt Nam?

Mời các bạn cùng tham gia đóng góp ý kiến chính kiến, cùng thảo luận về công hay tội của bác, đảng nhằm làm rõ hơn sự thật lịch sử để có hành động kiên quyết dứt khoát với quá khứ, mở hướng đi tươi sáng cho tương lai dân tộc Việt Nam.

*Tài liệu, sách tham khảo:
1)20 Năm cách mạng Châu Âu- BBC London.
2)Sự Thật Về Quan Hệ Việt Nam- Trung Hoa Trong 30 Năm - nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội.
3)Không Có Chuyện Cướp Chính Quyền Từ Tay Pháp Nhật của Tô Hải.
4)Đêm Giữa Ban Ngày của Vũ Thư Hiên.
5)Việt Sử Tân Biên của Phạm Văn Sơn.
6)Việt Sử Khảo Luận của Hoàng Cơ Thụy.
7)Wikipedia.





Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.