Hôm nay,  

Đồi Gió

03/05/201400:00:00(Xem: 6943)
Lời tác giả: Suốt hai tuần qua, khí hậu đột ngột thay đổi khắp nơi đã tạo nên nhiều thảm trạng. Nơi thì gió lốc, nơi mưa lụt, nơi bão giông.Riêng miền Nam Cali, tuy chỉ bị ảnh hưởng thôi, nhưng nóng và gió mạnh cũng đủ thay đổi nhiều sinh hoạt bình thường. Khi loay hoay cột mấy nhánh bồ đề, phòng xa khỏi bị gió lớn làm gẫy, tôi bỗng nhớ tới một bài viết cũ. Xin chia sẻ bằng tất cả niềm ngậm ngùi và lòng tôn kính. Huệ Trân.

* * *

Mới quá trưa, trời bỗng tối sầm, mây đen ở đâu kéo đến nhanh quá, và không bao lâu, mưa bắt đầu rơi. Tôi ngồi trước ban thờ Phật, lặng lẽ nhìn mưa rạt rào ngoài khung cửa kính, lòng lắng trong, an tịnh sau thời kinh Kim Cang.

Nhưng mưa mỗi lúc một nặng hạt hơn, rồi gió vần vũ ngả nghiêng những nhánh hồng, đập vào cửa kính, phút chốc, cuốn giạt tâm tĩnh lặng trong tôi, lên tới một vùng đồi tầm tã bão giông và đầy gió nổi!

Mấy ngày nay, khi tọa thiền, tâm tôi lại lang thang về đồi gió đó, một nơi chốn tôi chưa từng được biết, được tới. Chỉ vì tờ tạp chí tình cờ có được, trong đó có bài của ngài Huyền Không nhắc đôi giòng về ngôi chùa cổ rất nghèo, rất khuất lánh, trên ngọn đồi Kim Sơn nhìn xuống phía bắc sông Bạch Yến. Chùa thuộc làng Lựu Bảo, gần chùa Linh Mụ ở Huế.

Sau khi bị trấn động vì một vài chi tiết trong bài viết đó, tôi lục tung cả hai kệ sách, giở tất cả những cuốn có di tích về chùa chiền miền Trung, tìm thấy hàng trăm tên chùa, trừ chùa Kim Sơn! Ngôi chùa nhỏ - dường như cố tình khiêm tốn - nhưng tinh thần Bi Trí Dũng của đạo Phật vẫn thể hiện rực rỡ trong ngôi tháp tại khuôn viên chùa, nơi thờ xá lợi của một nhà sư, mà những sự kiện xảy ra thời đó đã được tôn vinh trong sử sách.

Tuy không tìm được hình ảnh xưa, về chùa Kim Sơn nhưng những chi tiết đọc được qua tờ tạp chí đã không ngừng thôi thúc tôi quán chiếu về bao dữ kiện lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam thời đó, thời người Pháp đã thẳng tay tiêu diệt những phần tử cách mạng yêu nước, tiêu biểu nhất là Việt Nam Quốc Dân Đảng, nổi dậy từ thập niên ba mươi.

blank
Không riêng gì Việt Nam, lịch sử thế giới đã chứng minh từ ngàn năm là khi không còn gì để mất thì không còn gì để sợ! Bao nhiêu năm dưới ách thống trị của người Pháp, người dân Việt Nam đã không còn gì để mất nữa, nên người Việt Nam vẫn tiếp tục đứng dậy đòi lại quyền làm người.Cũng từ ngàn xưa, người Phật tử hiểu rằng Đạo Pháp với Dân Tộc là một.

“Đạo như Trời đất
Vận hành mang mang
Lặng thinh dũng mãnh
Rạt rào thơm ngát Kim Cang….”

Thế nên, vào những năm cực kỳ đen tối của Đạo Pháp và Dân Tộc thì Thất Hiền đã tùy duyên mà cứu độ chúng sanh. Đó là những năm 1946, 1947 bẩy vị Thầy ưu tú nhất, tốt nghiệp Phật Học Đường Báo Quốc tại Huế (tương đương với bằng đại học Phật Giáo đầu tiên thời ấy) đã nương hạnh Bồ Tát Quán Âm mà tải đạo giúp đời. Có vị lánh vào Nam, âm thầm củng cố Giáo hội Tăng già, có vị cởi áo cà-sa tham gia kháng chiến, theo đúng tinh thần Quán Âm, nghe tiếng kêu thương quằn quại của cuộc đời là tìm đến bằng mọi cách, bằng bất cứ hình dáng nào thích hợp “Ưng dĩ trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà la môn, phụ nữ thân đắc độ giả, tức hiện trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà la môn, phụ nữ thân nhi vị thuyết pháp. Ưng dĩ đồng nam đồng nữ thân đắc độ giả, tức hiện đồng nam đồng nữ thân nhi vị thuyết pháp. Ưng dĩ thiên, long, dạ xoa, càn thát bà, atula, cẩn na la, ma hầu la già, nhân phi nhân đẳng thân đắc độ giả, tức giai hiện chi nhi vị thuyết pháp”, chỉ còn một thầy tình nguyện ở lại với ngôi chùa xiêu vẹo để cùng chia xẻ gian nguy và làm nơi nương tựa tinh thần cho dân nghèo quanh vùng. Đó là thầy Trí Thuyên, một trong Thất Hiền ưu việt của Phật giáo Việt Nam thời đó.

Với lưới tình báo bủa vây khắp nơi, người Pháp đã nghe phong phanh về ngọn đồi khô cằn sỏi đá, trên đó có ngôi chùa đổ nát đã đào tạo những nhà sư trí tuệ, có thể sẽ là những người lãnh đạo tinh thần, hướng dẫn dân chúng đòi lại nhân quyền.

Ngày 23 tháng 2 năm 1947, người Pháp được chỉ điểm đã bất thần kéo lực lượng võ trang hùng hậu tràn lên đồi Kim Sơn, xông vào chùa khi thầy Trí Thuyên đang tọa thiền trước chánh điện. Chúng lên đạn rầm rập, định bắn thầy ngay. Thầy chỉ điềm đạm yêu cầu để thầy tụng xong một thời kinh rồi hãy bắn, cũng không muộn. Chúng đồng ý. Và hầy khai chuông mõ, an nhiên tụng kinh.

Khi thời kinh dứt, Thầy điểm chuông, lạy ba lạy. Tiếng chuông còn ngân dài mà tiếng súng đã chát chúa vang lên !

Thầy Trí Thuyên gục xuống trước Tam Bảo trong hồi chuông Bát Nhã khi thầy chỉ vừa hai mươi bốn tuổi!

* * *

Kính lạy Mười Phương Chư Phật

Tiếng chuông cứu độ quyện vào tiếng súng oan nghiệt đó, tới nay đã hơn sáu thập niên, có lúc, có kẻ tưởng rằng cát bụi ta-bà đã phủ lấp Chân Như; nhưng không, trên ngọn đồi Bi Trí Dũng đó, gió có bao giờ ngừng thổi, mây có bao giờ ngừng bay, mặt trời có bao giờ ngừng mọc, trăng có bao giờ ngừng sáng, mưa có bao giờ ngừng rơi, nắng có bao giờ ngừng chiếu... nên thầy Trí Thuyên có bao giờ mà không còn đó với Kim Sơn, khi gió chính là mây, mây chính là mặt trời, mặt trời chính là mặt trăng, mưa lạnh chính là nắng ấm và thầy Trí Thuyên chính là Đạo Cả, là Chánh Pháp, là trùng trùng duyên khởi của vạn hữu bất sanh bất diệt. 

Với tất cả tấm lòng hướng về Chư Phật, con tin chắc thầy Trí Thuyên còn đó, con tin chắc không bao giờ thầy Trí Thuyên lại không còn đó.

Không phải thầy chỉ còn đó mà thầy vẫn đang tụng kinh. Thầy chỉ mới dứt kinh Bát Nhã, đem trí tuệ Phật soi tâm thế gian; Thầy còn tụng Phổ Môn cứu khổ cứu nạn, còn tụng A Di Đà đưa người nhất tâm bất loạn về Tịnh Độ, còn tụng Địa Tạng chuyển nghiệp cho kẻ đọa trầm luân….

Bạch Chư Phật, tiếng chuông hôm đó vẫn còn ngân vang, tiếng chuông đó chưa dứt, tiếng chuông đó không bao giờ dứt vì đó là tiếng đại hồng chung trong lòng Phật tử Việt Nam, những người con Phật hướng về Đạo Pháp trong tinh thần tải đạo cứu đời, thể hiện hạnh nguyện Quán Âm độ thế.

Thương thay cho những kẻ vô minh, vì nếu biết được điều đó, họ đã không lên đạn để diệt cái bất diệt.

Huệ Trân

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trước hiện trạng kỳ thị, không chỉ bạo hành bằng lời nói, mà còn tấn công hung bạo và bắn giết khiến nhiều người đã thiệt mạng hoặc bị thương tích nặng, các chuyên gia và các nhà hoạt động đã đưa ra một số biện pháp để chống trả vấn nạn này và giúp các thành viên trong cộng đồng tự bảo vệ
Lực lượng “ăn cháo đá bát” rất đông và lan nhanh như bệnh dịch, nhưng chưa bao giờ được công khai cho dân biết để dân bàn, dân kiểm tra. Ngược lại, dân lại là nạn nhân của đám ong nuôi trong tay áo từ bao năm nay. Chúng nằm trong ngành Tuyên giáo, trước đây gọi là Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương và Ban Khoa giáo Trung ương. Sau lưng đảng còn có đội ngũ chuyên nghề nói thuê và viết mướn gồm Báo cáo viên và Dư luận viên được trả lương bằng tiền thuế của dân.
Vào sáng ngày 1 tháng 5-1975 Trung tá bác sĩ Hoàng Như Tùng, nguyên chỉ huy trưởng Quân Y viện Phan Thanh Giản - Cần Thơ, mặc đồ dân sự, trong tư thế quân phong, đưa tay lên chào vĩnh biêt Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lênh Quân Đoàn IV, Quân Khu IV, Vùng 4 Chiến Thuật, trước sự kinh ngạc của một nhóm sĩ quan cấp cao của bộ đội cộng sản vì sự dũng cảm của bác sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng. Một sĩ quan của bộ đội cộng sản mang quân hàm thiếu tá tiến đến và yêu cầu bác sĩ Hoàng Như Tùng nhận diện Tướng Nguyễn Khoa Nam.
Sách này sẽ được ghi theo hình thức biên niên sử, về các sự kiện từ ngày 8/5/1963 cho tới vài ngày sau cuộc chính biến 1/11/1963, nhìn từ phía chính phủ Hoa Kỳ. Phần lược sử viết theo nhiều tài liệu, trong đó phần chính là dựa vào tài liệu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ “Foreign Relations of the United States 1961-1963”, một số tài liệu CIA lưu giữ ở Bộ Ngoại Giao, và một phần trong sách “The Pentagon Papers” của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, ấn bản Gravel Edition (Boston: Beacon Press, 1971). Vì giờ tại Việt Nam và Hoa Kỳ cách biệt nhau, cho nên đôi khi ghi ngày sai biệt nhau một ngày.
Tôi là anh trưởng trong gia đình, với 9 đứa em cả trai lẫn gái, nên trách nhiệm thật khó khăn, từ nhân cách cho đến cuộc sống. Nhưng may mắn tôi gặp được những người anh ngoài xã hội để noi gương và học hỏi. Một trong số những nhân vật hiếm hoi đó, chính là anh Nguyễn Văn Tánh, người mà tôi đã có cơ hội được tiếp tay hỗ trợ và đồng hành cùng anh trong suốt 20 cuộc Diễn Hành Văn Hóa Quốc Tế Liên Hiệp Quốc tại thành phố New York từ 20 năm qua.
Tôi tha phương cầu thực gần như trọn kiếp (và may mắn lạc bước đến những nơi không thiếu bơ thừa sữa cặn) nên bất ngờ nhìn thấy mảnh đời cùng quẫn thì không khỏi chạnh lòng. Nghe tiếng mời chào khẩn thiết, nhìn những khuôn mặt khẩn cầu của đồng bào mình mà muốn ứa nước mắt.
Các định kiến tai hại đối với các phụ nữ Á Châu trong văn hóa đại chúng của Mỹ đã có từ ít nhất thế kỷ thứ 19. Từ đó, các nhà truyền giáo và binh sĩ Mỹ tại Á Châu đã xem phụ nữ mà họ gặp đó như là ngoại lai và dễ tùng phục. Các định kiến này đã ảnh hưởng luật di trú đầu tiên của Hoa Kỳ dựa vào chủng tộc, Đạo Luật 1875 Page Act, ngăn cản các phụ nữ Trung Quốc vào Hoa Kỳ. Giả thuyết chính thức là rằng, ngoại trừ được chứng minh ngược lại, các phụ nữ TQ tìm cách vào Hoa Kỳ đã thiếu tư cách đạo đức và là những gái mại dâm. Trên thực tế, nhiều người là vợ tìm cách đoàn tụ với những ông chồng là những người đã đến Hoa Kỳ trước đó. Khoảng cùng thời gian đó, các phụ nữ TQ tại San Francisco cũng bị làm dê tế thần bởi các viên chức y tế địa phương là những người sợ rằng họ sẽ lây truyền các bịnh lây lan qua đường tình dục cho các đàn ông da trắng, là những người sau đó sẽ lây lan cho các bà vợ của họ. Vào giữa thế kỷ 20, các căn cứ chiến tranh và quân sự của Hoa Kỳ tại TQ, Nhật, Phi Luật Tân,
Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Bá Thanh, Nguyễn Thiện Nhân, Nguyễn Hòa Bình, Nguyễn Xuân Phúc … quả đúng là những kẻ thuộc giới ăn trên ngồi trốc. Họ là những hạt giống đỏ được gieo trồng từ miền Bắc, và đã ươm mầm thành cây. Loại cây này, học giả Phan Khôi gọi một cách lịch sự là cây Cộng Sản. Còn dân gian thì gọi là cây cứt lợn!
Nếu đảng đủ can đảm và ông Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng còn đủ bản lĩnh của một Lãnh đạo gương mẫu trong công tác phòng, chống tham nhũng thì hãy công khai cho dân biết Tổ chức Thanh niên của đảng đã làm được những gì cho dân cho nước trong 90 năm qua. Hay ngót 7 triệu Đoàn viên TNCS chẳng làm được trò trống gì, ngoải vai trò tay sai đã tuyệt đối trung thành với đảng và với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh?
Adam Smith và Karl Marx cùng được gọi chung là kinh tế cổ điển (classical economy) tức là lao động (labour) tạo ra giá trị (value.) Khác ở chổ Smith quan niệm thị trường tự do giúp mọi người hưởng thụ giá trị lao động còn Karl Marx lên án giá trị lao động của công nhân bị tư bản bóc lột. Vào đầu thế kỷ thứ 20 xuất hiện một cách nhìn mới là giá trị (value) do nơi tiện ích (utility) thay vì từ lao động (labour). Thí dụ một người đang khát uống ly nước đầu thì thật ngon, ly thứ nhì vừa vừa còn ly thứ ba đầy bụng nuốt không vô, tức là giá trị của mỗi ly nước giảm khi nhu cầu tiện ích hạ thấp. Quan điểm này gọi là Giá Trị Biên Tế hay Marginal Value.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.