Hôm nay,  

Putin Và Tập Cận Bình

30/05/201400:00:00(Xem: 4580)

Chuyến công du của Tổng Thống Nga Vladimir Putin sang Trung Quốc vào tháng 5-2014 có thể được ví với việc Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon sang Bắc Kinh vào năm 1972 – cả hai lần đều nhằm một mục đích tạo ra thế chân vạc mới trên bàn cờ quốc tế. Nhưng trái với cuối thế kỷ thứ 20 khi Mỹ muốn bắt tay với Trung Quốc để ngăn chặn sự bành trướng của Liên Xô thì nay Nga lại tìm hậu thuẫn với Hoa Lục nhằm tranh giành với thế lực từ Tây Phương.

Năm 1972 Hoa Kỳ bị sa lầy tại Việt Nam; năm 2014 Nga bị cô lập vì xâm chiếm Crimea. Không rõ do sắp xếp thế nào mà các nhà lãnh đạo của hai cường quốc này vốn đang gặp khó khăn lại phải đến Trung Quốc để tìm thế liên minh – cho dù Hoa Lục không phải là nước mạnh nhất, nhưng vẫn tạo cho Bắc Kinh thế thượng phong trước khi các cuộc thương thuyết bắt đầu. Mục tiêu đầu tiên của Hoa Lục là theo phương châm của Gia Cát Khổng Minh dưới thời Tam Quốc Chí “Bắc cự Tào Tháo, Đông hoà Tôn Quyền” để lực lượng tránh không bị phân tán phải đối phó với đối phương từ hai phía khác nhau. Kế tiếp Bắc Kinh đòi hỏi nhiều hợp tác thuận lợi cho sự tăng trưởng của Trung Quốc: trước đây Mỹ mở cánh cửa đầu tư và trao đổi công nghệ, nay Nga tăng cường cung cấp năng lượng và kỹthuật quốc phòng.

Tuy không hài lòng với hoàn cảnh hiện thời do Hoa Kỳ nắm thế thượng phong nhưng cả hai nước Nga-Trung đều thận trọng để không phá vỡ trật tự thế giới. Bằng chứng là Moskva không dùng đến quân đội chính quy mà chỉ tung ra các toán lính đặc biệt che mặt và không mang quân hiệu khi khuấy động vùng Crimea, còn Bắc Kinh xử dụng rồng phun nước thay vì súng đạn đế bảo vệ dàn khoan dựng lên trái phép trong lãnh hải Việt Nam. Bởi một khi súng đạn nổ ra giữa hai quân đội sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy nghiêm trọng làm gián đoạn giao dịch thương mại và quan hệ chính trị toàn cầu mà cả Bắc Kinh lẫn Moskva vẫn chưa lường trước được. Hơn nữa những đối tượng bị nhắm đến tức Ukraine và Việt Nam đều lẻ loi với hệ thống chính trị và kinh tế lệ thuộc nặng nề vào hai nước láng giềng khổng lồ mà lại không có liên minh quân sự với NATO hay Hoa Kỳ che chở, cho nên là những mục tiêu tốt để doạ nạt, phá hoại và xâm chiếm mà chưa cần đến sức mạnh quân sự.

Cho đến nay cả Nga và Trung Quốc chỉ cho thấy ý đồ bành trướng khu vực để dành lại các quyền lợi “truyền thống” hay “lịch sử”, tức là khuất phục những quốc gia lân bang biến thành chư hầu. Tuy nhiên quá khứ cho thấy một khi cán cân lực lượng thay đổi thì tham vọng cũng tăng thêm và khi đó sẽ trở thành mối đe dọa trực tiếp cho toàn bộ khối các nước dân chủ.

Dù vậy Tây Phương vẫn chưa tìm ra biện pháp đáp trả hữu hiệu đối với các hình thức tiến công phi quy ước (unconventional). Từ lính bịt mặt xuất hiện ở vùng cận Nga cho đến tàu hải giám Trung Quốc phun vòi rồng ở biển Đông, các sự kiện tuy nghiêm trọng nhưng không đủ để vận động dư luận tại các nước dân chủ hậu thuẫn những biện pháp trả đũa cứng rắn. Riêng tại Hoa Kỳ dân chúng đã mỏi mệt với hai cuộc chiến Iraq và Afghanistan; Mỹ lại can dự quá vào nhiều các tranh chấp không có đoạn kết như Bắc Hàn, Iran, và phong trào Hồi Giáo cực đoan. Lo ngại lớn nhất của Hoa Kỳ là bị lôi kéo vào một cuộc chiến dai dẳng khác trong lúc dư luận quốc nội chưa thống nhất còn các nước đồng minh lại thiếu quyết tâm nên dễ bị chia rẽ vì quyền lợi.

Trở lại chuyến công du của Putin sang Bắc Kinh: theo bài học của thập niên 70 thì sau khi Trung Quốc hoà hoãn với Hoa Kỳ họ đã tấn công “dạy cho Việt Nam một bài học”. Liên Xô không dám trả đũa bảo vệ cho nước đàn em nên bị Đặng Tiểu Bình chế nhạo là “có gan sờ đuôi cọp mới biết cọp giấy”. Từ đó Hoa Lục tập trung vào canh tân đất nước, không còn xem Liên Xô như hiểm hoạ từ phương Bắc.

Câu hỏi đặt ra rằng Trung Quốc có tấn công Việt Nam hay không sau khi đã bắt tay với Putin? Có lẽ chưa đến lúc bởi vì Bắc Kinh còn nhiều phương thức khác để phá hoại nền kinh tế và khích động căm phẫn của dân chúng đối với nhà cầm quyền nhằm lung lạc tinh thần đoàn kết và ý chí đề kháng. Nhưng một khi Việt Nam chứng tỏ quyết tâm, chẳng hạn tìm kiếm liên minh quân sự với Hoa Kỳ thì sẽ là cơ hội để Hoa Lục tấn công để “nắn gân” Mỹ có đủ ý chí để can thiệp vào vùng sân nhà của Trung Quốc hay không? Phản ứng của Hoa Kỳ trái lại tuỳ thuộc vào thái độ của Việt Nam khi đó có dứt khoát thực hiện dân chủ và đoàn kết để bảo vệ bờ cõi thì họ mới có thể vận động dư luận quần chúng nhằm can thiệp tận tình, còn trái lại nếu vẫn tiếp tục mập mờ đu dây thì họ sẽ khai thác mối bất hoà đủ để làm hao mòn tiềm lực của hai nước Việt-Trung mà không cần tham dự quá sâu.

Một trường hợp khác mà Hoa Kỳ và Phi đang dự phòng là sau vụ dàn khoan HQ 891 Bắc Kinh sẽ thách thức thế nào với Philippines vốn là nước có hiệp ước phòng thủ với Mỹ? Trung Quốc biết cam kết của Mỹ đối với Phi nhẹ hơn rất nhiều so với Nhật nên đây là mắt xích yếu kế tiếp để bẻ gãy. Dù khả năng Hoa Kỳ can thiệp về quân sự sẽ rất ít trừ phi sự cố bộc phát ngoài dự đoán, nhưng Mỹ và Nhật sẽ gấp rút yểm trợ cho Philippines chuẩn bị cho các cuộc đụng độ lớn hơn về sau này.

Câu hỏi đặt ra là khi đó Bắc Kinh sẽ áp lực Hà Nội im tiếng để đổi lấy một số nhượng bộ nhỏ nhằm phá vỡ thế liên minh Việt-Phi. Dân Phi đã biểu tình ủng hộ khi Việt Nam bị Trung Quốc xâm lăng, liệu người Việt Nam có sẽ đáp đền ân tình khi nước bạn bị đe doạ hay không?

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.