Hôm nay,  

Cha Tôi

07/06/201400:00:00(Xem: 4931)
Nguyễn Ninh Thuận
(Trích Hồi Ký “Mảnh Đời Của Minh”)

Từ thuở nhỏ, Minh có tính hời hợt, nhưng lại thích se sua, đua đòi. Minh là con út trong gia đình, nên nàng được cha mẹ rất nuông chiều, nàng muốn gì được nấy. Các chị lớn cũng hết sức cưng yêu, bao bọc chở che… Nàng được ưu tiên cắp sách đến trường, trong khi các anh chị thì phải lo tảo tần buôn bán, tìm kế sinh nhai nuôi sống gia đình trong khi gia đình xuống dốc vì thời thế, chiến tranh loạn lạc...

Minh học tiểu học ở quê nhà từ lớp năm đến lớp nhì. Với tuổi trẻ hồn nhiên, Minh sống thật vô tư, ngày ngày chỉ biết có ăn học và nô đùa với bè bạn mà thôi! Minh là Oanh Vũ của gia đình Phật tử địa phương…

Nhà Minh ở cạnh chợ nên rất tiện lợi trong việc mua bán. Chợ nằm cạnh con sông nhỏ đầy thơ mộng, uốn khúc bao bọc gần hết nửa làng, hơn nửa làng còn lại là đồi núi chập chùng…Nơi đây là nghĩa địa dành cho người dân địa phương. Có những ngôi mộ với nhà mồ to lớn, bia đá sừng sững. Bên cạnh đó là những nấm mộ chỉ là những ụ đất nhỏ bé thấp lè tè. Nhìn vào đó, người ta dễ dàng đoán biết được thân nhân của những nấm mộ kia thuộc thành phần nào trong xã hội; giàu sang hay nghèo khổ…

Có những buổi chiều tà, mặt trời gần khuất núi, những dải nắng thoi thóp cố gượng dậy, Minh hay rủ cô bạn cùng dãy phố đi lên đồi để dạo chơi và hái hoa. Vào mùa sim chín, tụi Minh thường rủ nhau đi sớm hơn để còn rong chơi trên đồi núi dễ thương, nhiều kỷ niệm… Hai đứa lúi húi vạch từng bụi sim, tìm hái những trái chín mọng đưa vào miệng, sung sướng nhai với tiếng cười rộn rã. Quả sim ngọt lịm, ăn nhiều làm cho lưỡi và răng trong miệng nhuộm màu tím rịm của sim. Ăn không hết, tụi Minh cất vào túi mang về nhà sau này ăn tiếp.

Trên đường về, Minh gặp từng nhóm trẻ mục đồng năm ba đứa, miệng chúng nghêu ngao hát, lùa trâu về chuồng… Minh rất sợ những con trâu với hai cái sừng cong cong và nhọn hoắt. Minh tưởng tượng, với hai cái sừng này húc vào người thì có nước nát bấy thân xác. Chợt Minh rùng mình cho cái ý tưởng không may của mình mới nghĩ đến… nàng vội nắm tay cô bạn ù té chạy một mạch về nhà mệt ngất ngư, thở không muốn ra hơi.

Những sáng thứ Bảy, Chúa nhật được nghỉ học. Minh viện cớ này, cớ nọ..., nàng rủ bạn lên núi để nhìn ngắm quê hương xinh đẹp trong buổi bình minh. Sau một đêm dài yên nghỉ, mặt trời bắt đầu ló dạng. Những tia sáng ban mai, hình như đang nhảy múa trên cành cây ngọn cỏ. Những giọt sương đêm còn đọng lại, dưới ánh nắng mặt trời như những hạt kim cương lấp lánh trông rất nên thơ, đẹp mắt. Cả một rừng hoa dại bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài đầy mộng mơ. Tất cả như cố đua nhau khoe hương, khoe sắc. Cây hoa ngũ sắc càng rực rỡ hơn sau một đêm tắm sương thỏa thích. Xa xa từng bụi lau cũng cố chen chân khoe màu trắng ngà với hoa lá. Từng đàn bướm đủ màu, bay lượn xung quanh những cánh hoa rực rỡ muôn màu & đồi núi xanh thẳm chập chùng…cả một khung cảnh xinh đẹp & nên thơ làm Minh như sống trong cảnh thần tiên đầy mộng mơ…

Khi còn trai tráng & thời trung niên, Ba Minh nắm giữ sổ sách ruộng nương, chấm công, coi chi thu trong gia đình…rồi Ba thu hoạch lúa má, tiền bạc của các tá điền đem giao nộp, vì ông Nội Minh là một Bá Hộ giàu có tiếng ở vùng quê Mỹ Chánh… Khi về già, Ba Minh là một tín đồ rất ngoan đạo. Đêm đêm, người tụng kinh, gõ mõ tại gia. Người rất hiền lành và không bao giờ động tới móng tay bất cứ việc nặng hay nhẹ trong nhà. Cuộc sống của gia đình hoàn toàn do ba người chị của Minh tảo tần lo liệu tất cả. Ngày ngày, ba của Minh chỉ biết đi chùa lễ Phật, thỉnh thoảng đi nhóm họp, và lo việc cúng tế ở trong làng…Nhớ khi ông nội của Minh…

....Là một bá hộ cả vùng, giàu sang phú quí có thừa. Tiền bạc, lúa gạo các tá điền mang nộp, phải lấy an xúc lúa mà đong, không đếm xuể. Nhà ngói mấy dãy, người ăn kẻ ở ra vào tấp nập. Kẻ ra, người vào nhờ cậy, vay mượn đông đảo... Nhưng ông nội Minh phải lòng một bà giúp việc trẻ đẹp. Ông lập ra thêm một cơ ngơi mới. Bà nội Minh lại rất hiền lành, tâm của bà như một vị tu hành, bà luôn giúp kẻ khốn cùng trong làng xóm. Đến mùa lụt lội, bà cho người chèo thuyền đi phân phát thực phẩm cho người nghèo đói. Bà nội ghẻ rắp tâm bòn rút của cải...Tiền bạc lần lần không cánh mà bay sang nhà bà nội ghẻ hết sạch. Bốn cô chú con bà nội ghẻ lần lượt được đưa vào Huế ăn học, xây dựng cơ ngơi. Họ lớn lên, lần lượt lấy vợ gả chồng, giàu sang phú quí.

Ba của Minh được phong hàm Cửu phẩm thời nhà Nguyễn. Ba được dân làng rất kính trọng, ăn trên ngồi trước trong đình đám hội hè. Ba Minh phải ở lại quê nhà trông coi ruộng nương, và lo phần hương hỏa. Rồi chính sách “Người cày có ruộng” ra đời, ruộng vườn phải giao lại cho tá điền, nhà chỉ còn lại một ít. Ba Minh không thể trực tiếp làm ruộng được, người cho người ta làm rẻ. Huê lợi thu vào ngày càng ít ỏi. Gia đình ngày càng lâm vào khánh kiệt. Rồi thì ruộng vườn, nhà cửa tan hoang trong thời kỳ Tây đô hộ nước ta và càng khốc liệt hơn khi cuộc chiến xảy ra giữa hai miền Nam Bắc thật ác liệt. Minh nghe chị Hường kể lại:


- Có khi gia đình mình không còn gạo nấu, tất cả phải ăn khoai sắn trừ cơm, đôi lúc bị say vì sắn độc.Những lúc ấy, mấy chú còn giàu sang, không một ai có lòng giúp đỡ ba mẹ Minh trong cảnh đói nghèo này! Nhớ lại thuở gia đình ba mẹ Minh còn giàu sang phú quí, lắm anh em bà con bè bạn lui tới nườm nượp để nhờ vả, hỏi mượn. Nay thấy gia cảnh ba mẹ Minh đã quá nghèo nàn, không còn gạo nấu thì họ lại lánh xa như không hề quen biết, kể cả anh chị em ruột thịt...

Ba Minh rất hiền, làng trên xóm dưới, ai ai cũng đều thương yêu và quí mến. Ba ký cóp tiền bạc, cất dấu không dám tiêu xài để lo cúng kỵ, quan hôn tang tế trong thân tộc họ hàng... Ngoài ra khi Minh học ở Đồng Khánh Huế về thăm nhà, khóc lóc với mẹ đòi tiền để chi tiêu rộng rãi... thì Ba Minh lấy từng đồng bạc được xếp hẳn hoi dúi cho con gái út với ánh mặt ái ngại thương xót...

Minh được đi học là cả một sự hy sinh thật to lớn vô cùng của gia đình ba mẹ. Bù lại, Minh học rất khá, hàng tháng đều mang về trình ba mẹ bằng khen hoặc bằng danh dự. Ba đã cất kỹ trong tủ áo. Lâu lâu ba mang ra khoe với bà con hàng xóm đến thăm với vẻ hãnh diện. Dù là còn non dại, nhưng Minh nguyện đem hết tâm trí ra học và chỉ biết có học mà thôi, với ý nguyện mong đền đáp một phần nào công ơn bao la Trời biển của cha mẹ và anh chị đã hết lòng nuôi Minh ăn học.

Tuy gia đình Minh xuống dốc, nhưng Ba Minh không biết cầm cây cuốc làm vườn, mà chỉ thuê người có sức lực về làm thay để trồng những cây như: Lá Chè xanh, Đậu, Mè, Bắp, Chuối, Mít, Mía, Ổi, Mãng Cầu Xiêm… dưới sự chỉ đạo của Người. Gia đình Minh có hai nhà, một nhà ở trên chợ mua bán bánh mứt độ nhật qua ngày và một nhà cuối làng trồng cây trái. Ngoài ra có hai mảnh vườn cho người ta làm nhà ở giữ vườn tược, cây trái có sẵn. Họ có thể trồng trọt cây theo mùa mà họ thích để thu nhập hoa màu…Khi có thu hoạch cây trái có sẵn, thì ba má Minh đến cắt những quầy chuối về dú chín, hái cam quít…bán lấy tiền để lo giỗ chạp cúng tế, vì Ba Minh giữ phần hương hỏa trong gia tộc…đó là những việc không có tên, nhưng cũng bận rộn tối ngày… Tuy vậy trước Tết vài ba tháng, ba cũng cố trồng một ít bông Vạn Thọ, hoa Mào Gà trước & xung quanh nhà, tỉa cây Mai, hoa Hải Đường… cho rộn ràng không khí Tết. Ngoài ra Ba Minh hay lo chiết những cây Cam, Quít, Bưởi để khu vườn được thay thế những cây già nua, trái nhỏ… Ba Minh rất siêng việc cúng tế ở Làng, Họ, Chùa Miều… Ba lại là con trai trưởng trong gia đình bề thế nên Người mãi mê lo tu bổ mồ mả trong gia tộc và thường xuyên cúng bái những thân nhân họ hàng đã khuất mặt…

Minh nhớ lại khi còn bé, mỗi khi cúng tế trong đình làng, hay đền thờ Họ Nguyễn, Ba Minh với chức cửu phẩm đã mặc áo thụng xanh, đội mũ cánh chuồn, chấp tay đứng trong chiếu hoa quỳ lạy theo tiếng chiên trống… “hưng, bái, cúc cung bái, quỳ…” vẫn còn bên tai Minh mãi mãi…. Khi dự tịệc đình đám trong làng xóm, họ hàng…Ba lại ngồi trên với các vị hương lão chức sắc… Mỗi hàng năm trong lễ giao thừa vào sáng Mồng Một Tết, Ba Minh trong bộ áo dài đen, khăn đống, đứng trước bàn thờ Tổ Tiên, với khói hương trầm nghi ngút, ánh bạch lạp bập bùng… Người đang lâm râm khấn nguyện… Minh còn ngái ngủ nhìn hình bóng Ba chập chờn trước mắt như một bức tranh thủy mạc…mà thương chi lạ! Trên bàn thờ với mâm cỗ chay, bánh mứt, hoa quả tinh khiết, nước trà thơm ngát tỏa khắp cả ngôi nhà. Không khí như trầm hẳn xuống với khí trời hơi lành lạnh đượm đầy vẻ trang nghiêm. Vườn nhà Minh rất rộng được bao quanh bởi luỹ tre xanh tươi kẻo kẹt và ao đào quanh nhà đầy nước vì là mùa mưa, nên tiếng côn trùng, ểnh ương kêu vang, như một khúc nhạc hòa tấu bản nhạc của làng quê mãi mãi trong ký ức Minh & hình ảnh cha mẹ nay đã khuất núi sống mãi trong tâm tư, trí óc Minh không bao giờ phai nhòa… Đó là một kỷ niệm khó quên, một mớ hành trang trong cuộc sống mà Minh trân quý hơn bạc tiền và những thứ quí hiếm trên cõi đời ô trọc này!…

“Còn Cha gót đỏ như son,
Không Cha không Mẹ như đờn đứt dây.”

Ca dao tục ngữ chẳng sai,
Mồ côi cha mẹ đêm ngày nhớ thương…
Cha tôi rất đổi hiền lương,
Giữ nhân, giữ nghĩa, hay thương dân nghèo…
Nhớ ngày có lắm người theo
Của tiền đầy ắp, kẻ vào người ra…
Gặp thời đất nước can qua,
Chiến tranh khủng khiếp, cửa nhà nát tan…
Buồn đời, danh lợi chẳng màng,
Ngày đêm kinh đệ, xóm làng chăm lo…
Vợ con hôm sớm nhỏ to
Bán buôn tần tảo, ấm no qua ngày.
Nhờ Người tạo đức lâu dài,
Ngày nay con cháu thành tài vinh quang…
Niết bàn, cha mẹ rỡ ràng,
Nhớ Cha, con cái hai hàng lệ rơi…

Ninh Thuận Nguyễn

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi đối với cha mẹ có thể cung kính mà vui vẻ, mới là tận Hiếu. Chữ “Kính” nhấn mạnh việc không để xảy ra sơ suất dù rất nhỏ, phụng dưỡng cha mẹ già xuất phát từ nội tâm, với khuôn mặt vui vẻ, mới có thể nói là “Hiếu.” Người già không khác những đứa trẻ, nhiều khi hay tủi thân, hờn dỗi và dễ phiền muộn. Con cái có thể cho cha mẹ ăn uống, hầu hạ cha mẹ khuya sớm nhưng rất khó biết đến nỗi buồn của cha mẹ lúc về già.
Giáo hội xin tán thán tinh thần hộ đạo và tu đạo của quí Thiện nam Tín nữ trong hoàn cảnh tai ương đầy kinh hãi hiện nay. Tất cả năng lực và công đức lớn lao này của người đệ tử, chúng con xin dâng lên cúng dường đức Thế Tôn trong ngày Đản sinh. Hàng trăm ngàn trái tim, hàng vạn ngàn bàn tay siết chặt giữa những thương đau tràn ngập của nhân loại, chúng con nguyện quán chiếu thật sâu sự khổ nạn hiện nay để kiên nhẫn mà vượt qua.
Có lẽ cả Trung Cộng lẫn Hoa Kỳ đều không mong muốn việc khơi mào cho một cuộc xung đột vũ trang, nhưng trước thái độ xác quyết của tổng thống Joe Biden, Trung Cộng hiểu rằng họ đang đối đầu với một đối thủ nguy hiểm gấp bội lần so với những năm qua.
Với chế độ độc đảng toàn trị hiện hành, với bộ máy tam trùng hiện tại, với văn hoá tham nhũng hiện nay, và với chủ trương cấm tự do báo chí cố hữu … thì chuyện sống được bằng lương mãi mãi chỉ là một kỳ vọng xa vời. Vô phương thực hiện!
Hội nghị Paris là một quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt kể từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, sau ngày 25 tháng 1 năm 1969 có thêm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Ngoài 202 phiên họp chính thức của bốn bên, còn có thêm 24 cuộc mật đàm khác giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Cuối cùng, hội nghị kết thúc sau bốn năm chín tháng và bốn bên chính thức ký kết Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khép lại trang sử Việt của hai lực lượng dân tộc đối đầu nhau trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng sản. Thế tương tranh này kéo dài từ tranh chấp giữa hai triết thuyết xuất phát từ phương Tây – Duy Tâm và Duy Vật, đã làm nước ta tan nát. Việt Nam trở thành lò lửa kinh hoàng, anh em một bọc chém giết nhau trong thế cuộc đảo điên cạnh tranh quốc tế.
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba. Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.
Hình ảnh thay cho ngàn lời nói, ghi nhận rõ "sự hấp hối" của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ghi lại cảnh hỗn loạn, sự hoảng hốt, nỗi lo sợ của dân chúng lũ lượt rời nơi đang sinh sống, đã bỏ nhà cửa trốn chạy trước khi VC tràn vào thành phố
Chúng ta liệu có thể đóng vai trò giúp đỡ những người nhập cư và tị nạn trong tương lai như là người Mỹ đã từng làm cho chúng ta không? Theo lời của Emma Lazarus, liệu chúng ta có nâng “... ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng” cho “... kẻ bão táp, người vô gia cư ... người mệt mỏi, người nghèo khổ” không? Đối với chúng tôi, trong ngày 30 tháng 4 này, không có câu hỏi nào có ý nghĩa và tính quan trọng hơn câu hỏi này.
Khách đến Việt Nam ngày nay thấy nhiều nhà cao cửa rộng, xe chạy chật đường hơn xưa. Nhưng đa số người Việt Nam có vẻ không có cái nhu cầu dân chủ của người Myanmar hay người Hồng Kông. Hay là họ có, nhưng 20 năm chiến tranh đã làm họ mệt mỏi, xuôi xị chấp nhận chút đầy đủ vật chất, nhắm mắt với tương lai? Và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể hy vọng người Việt sẽ ngoan ngoãn như người dân Bắc Hàn, không cần dự phần tự quyết cho tương lai của mình và con cháu mình?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.