Hôm nay,  

Con Tàu Của Thế Kỷ 20

28/08/201400:59:00(Xem: 9273)

Con Tàu của Thế Kỷ 20
.

KS Nguyễn Văn Phảy
Cap Anamur I / Chuyến thứ 8
.

1. Bối cảnh:

Nói đến con tàu thì chúng ta đều nghĩ ngay đến là vật vô tri vô giác. Tuy vậy, con tàu đó lại rất nổi tiếng, không những đối với toàn thể người Việt tỵ nạn cộng sản trên toàn thế giới, mà ngay cả người dân bản xứ, nơi đâu có người Việt định cư cũng đều biết đến. Có thể nói, con tàu không những làm cho thế giới rung cảm trước những hành động nhân đạo của nó vào những năm cuối thập niên 1970 và thập niên 1980 mà nó còn xứng đáng mang danh là "Con Tàu của Thế Kỷ 20". Đó là Con Tàu cho Việt Nam (Ein Schiff für Vietnam = A ship for Vietnam). Con tàu đã được nhân cách hoá như là một ân nhân của người Việt tỵ nạn cộng sản. Đó là con tàu cứu thuyền nhân trên biển Đông do vợ chồng Dr. Rupert Neudeck cùng nhà văn Heinrich Böll khởi xướng và thành lập vào tháng 8 năm 1979 và được Ủy Ban Bác Sĩ Cấp Cứu Người Đức (Deutsches Komitee Not-Ärzte e.V.) thực hiện. (Ghi chú: e.V. viết tắt của những chữ eingetragen Verein, có nghĩa là một Hội có tư cách pháp nhân đã được ghi danh ở toà án và được luật pháp bảo vệ).

Kể từ 30.4.1975, sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, vì không thể sống dưới chế độ cộng sản, khoảng 1,6 triệu người Việt bỏ nước ra đi bằng thuyền, ghe mà thế giới gọi là boat people = thuyền nhân. Làn sóng thuyền nhân bộc phát rầm rộ ở biển Đông. Họ là người Việt Nam giờ đây phải xa rời tất cả những gì của quê hương, từ tình cảm đến vật chất, bà con họ hàng, để chạy tỵ nạn cộng sản, vượt biển tìm tự do. Nhưng đoạn đường đi bằng thuyền ghe đối với biển Đông quá mênh mông, quá nguy hiểm và niềm hy vọng của họ đến được bờ thật là quá mỏng manh. Theo tin tức của thế giới cho biết số người vượt biển bị chìm sâu xuống đáy vì bão tố, ghe chết máy lênh đênh trên biển nhiều ngày rồi chết khát chết đói, hoặc bị hải tặc Thái Lan cưỡng hiếp, bắt cóc vào các hang động ở ngoài đảo hoang v.v. có thể lên đến mấy trăm ngàn người. Tính đến năm 1979 Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc phỏng đoán có ít nhất là từ 200.000 đến 250.000 thuyền nhân Việt Nam bị chìm sâu xuống đáy biển. Thế giới rất bàng hoàng trước những tin tức về những cảnh tượng hãi hùng như vậy nên đã có rất nhiều người thương hại, quan tâm và lo lắng.
.

2. Tiến trình hình thành Con Tàu cho Việt Nam với Ủy Ban Bác Sĩ Cấp Cứu Người Đức:

Trước những làn sóng thuyền nhân trên biển Đông như vậy, một số quốc gia ở tây phương đã có những kế hoạch nhân đạo nhằm giúp đỡ thuyền nhân Việt Nam tỵ nạn cộng sản.

Pháp quốc là quốc gia đi đầu trong việc thành lập Ủy Ban và Con Tàu Nhân Đạo. Đó là Ủy Ban một Con Tàu cho Việt Nam ”Le Comité Un bateau pour le Vietnam” được thành lập vào tháng 12 năm 1978 để tìm kiếm và cứu vớt người sắp chết chìm trên biển Đông, đã được mọi tầng lớp dân chúng, đại diện các tôn giáo, chính trị gia và đảng phái chính trị tại Pháp đã ủng hộ tích cực, ngoại trừ đảng cộng sản Pháp.

Vào tháng 2 năm 1979, hành động nhân đạo của Pháp lan truyền đến Đức quốc. Qua đài phát thanh và truyền hình "WDR" ở tiểu bang Nordrhein Westfalen, ông Curt Hondrich đã nhanh chóng ủng hộ, lấy chữ ký của đồng nghiệp để vận động thành lập Con Tàu cho Việt Nam "Ein Schiff für Vietnam". Nhà văn Heinrich Böll là người đầu tiên giúp đỡ ủy ban, tổ chức một cuộc họp báo vào ngày 18.4.1979 ở khách sạn Tulpenfeld tại Bonn. Lúc bấy giờ Bonn là thủ đô của nước CHLB Đức. Trong cuộc họp báo, có sự hiện diện của sáng lập viên Ủy Ban Pháp quốc, ông André Glucksmann và của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc (UNHCR) đặc trách vấn đề tỵ nạn tại Tân Gia Ba (Singapore), bà Luise Drüke. Qua cuộc họp báo đó, công chúng Đức đã biết thêm về hàng trăm ngàn thuyền nhân Việt Nam bị chìm dưới biển khơi hay làm mồi cho cá mập. Trên đường vượt biển, thuyền nhân chỉ có hy vọng khoảng 50% được sống sót mà thôi.

Vào thời điểm nầy người Pháp đã thành lập còn tàu nhân đạo, được trang bị những dụng cụ của một bệnh viện nổi trên tàu, có cả thuốc men và đoàn bác sĩ cùng y tá. Họ đã khởi sự hoạt động ở vùng biển trước đảo Poulo Bidong khoảng 26 hải lý của bờ biển Mã Lai Á vào những tháng đầu năm 1979. Họ cần nguồn tài chánh để trang trải những chi phí. Sau cuộc họp báo (press conference), Ủy Ban Âu Châu "Con Tàu cho Việt Nam" (Die deutsche Sektion des europäischen Komittes Ein Schiff für Vietnam), bộ phận Đức quốc đã chuyển ngay vào trương mục của Ủy Ban Pháp 72.000 DM (Deutsche Mark = Đức Mã) để phụ giúp trả tiền thuê mướn tàu.

Vài tháng trôi qua, ngày 12.6.1979, trên tất cả trang báo chí, hệ thống truyền thanh, truyền hình tại CHLB Đức đồng loạt loan tin lời tuyên bố của một Bộ trưởng Mã Lai Á rằng, kể từ giờ phút nầy, Mã Lai Á sẽ không cho phép người Việt tỵ nạn đến bờ biển Mã Lai Á. Mã Lai Á sẽ dùng áp lực gọi là "Task Force VII" để đẩy thuyền nhân Việt Nam ra lại biển khơi mặc cho sóng to gió lớn, bão táp và dù cho những chiếc ghe thuyền bị hư hại hay quá tải như thế nào. Tin tức nầy làm chấn động và bàng hoàng cả thế gới. Đồng thời tất cả hệ thống truyền thông tại Tây Đức đã đăng tải liên tục không ngừng nghỉ bi kịch ngoài biển Đông với tựa đề "Verdammt der Meere" (tạm dịch: Phẫn nộ biển khơi), và họ nói thẳng thừng rằng "thế mà chẳng ai giúp đỡ".
.

Thế là, một ủy ban đã được thành lập và được dân chúng, bác sĩ, y tá cùng những người săn sóc bệnh nhân tự nguyện tham gia một cách tích cực. Liên tục sau đó, vào ngày 17.7.1979, chương trình truyền hình vào mỗi buổi sáng từ 5:30 giờ đến 9:00 giờ sáng gọi là "Morgenmagazin=Tạp chí buổi sang", viết tắt MoMa, của đài truyền hình và phát thanh NDR (NordDeutsche Rundfunk) liên tục tường thuật về mục đích của ủy ban nầy. Vào ngày 24.7.1979 thì chương trình TV-Magazin ở Baden-Baden cũng đã loan báo về sự thuê mướn một con tàu để đến biển Đông cứu người vượt biển và săn sóc thuyền nhân trong các trại tỵ nạn ở các đảo đang gặp phải mọi sự thiếu thốn về thuốc men, thực phẩm... Ba ngày sau đó, trương mục ngân hàng của ủy ban đã có được trên 1 triệu DM do ân nhân chuyển vào giúp đỡ. Thế là kế hoạch thành lập Con Tàu cho Việt Nam đang tiến hành thực hiện.
.

Song vào đó, ủy ban cũng đề cập đến tính gấp rút để có con tàu càng sớm càng tốt, nhằm cứu vớt thuyền nhân đang lâm nạn trên biển Đông. Ủy ban nghĩ rằng nếu mướn con tàu từ Hamburg đi đến Tân Gia Ba (Singapore) và biển Đông cũng mất ít nhất là 4 tuần lễ. Như vậy quá chậm trễ. May mắn thay cho ủy ban, sau khi tin tức liên tục được phát đi trên các hệ thống truyền thanh, truyền hình tại Đức, thì đại diện của một Công Ty Chuyển Vận Đường Thủy "Bauer und Hauschildt" ở Hamburg, ông Hans Voß đã liên lạc với ủy ban và cho biết công ty của ông đang có một con tàu mang tên Cap Anamur hiện nằm tại hải cảng Kobe ở Nhật Bản. Con tàu có chiều dài 118 m, bề rộng 17 m, chiều cao 9 m. Vì là tàu dùng để chở kiện hàng nên trên tàu đã có thiết trí 3 hệ thống cần trục, rất thuận tiện cho việc cứu vớt thuyền nhân. Tàu Cap Anamur vừa hạ thủy vào ngày 26.7.1979 từ xưởng đóng tàu Watanabe Shipbuilding, Hakata, Nhật Bản. Đồng thời, ông Voß cũng nộp đơn xin chính quyền liên bang và tiểu bang Đức thay đổi mục đích của con tàu, để có được giấy phép cho tàu Cap Anamur đi cứu người vượt biển trên biển Đông thay vì dùng để chở kiện hàng thương mại. Ngày 30.7.1979 ủy ban liên lạc và thương lượng với ông Voß về giá cả thuê mướn. Vào ngày 31.7.1979 ủy ban đến thành phố Hamburg, gặp ông Voß để ký hợp đồng thuê con tàu Cap Anamur với giá 210.000 DM tiền thuê hàng tháng, cộng thêm những chi phí cho việc trang bị dụng cụ y khoa và tiền nhiên liệu để chạy máy. Theo kế hoạch, con tàu phải khởi hành cứu người vượt biển vào ngày 9.8.1979. Vào ngày 4.8. 1979 đội ngũ y tá và bác sĩ tình nguyện đầu tiên lên đường để bắt đầu làm việc trên tàu. Để kịp thời gian khởi hành, trong vòng 4 ngày, từ 5 đến 9.8.1979 họ phải cấp tốc làm việc ngày cũng như đêm để thiết lập một bệnh viện nổi trên tàu cũng như trang bị mọi dụng cụ y khoa cần thiết và những chỗ nằm trên boong tàu. Ngoài ra những trang thiết bị cho vấn đề hàng hải và tiếp cứu cũng được cung cấp thêm.

Vào lúc 15.04 giờ ngày 9.8.1979, con tàu Cap Anamur nhổ neo rời hải cảng Kobe của Japan với sự tham dự của rất nhiều cơ quan truyền thông truyền hình, báo chí Nhật Bản. Họ đến quay phim và tiễn đưa con tàu ra khơi hướng về biển Đông. Dưới sự hướng dẫn và điều khiển của thuyền trưởng (Captain) Klaus Buck, con tàu đã hiện diện tại biển Đông vào ngày 13.8.1979 và bắt đầu đi vào hoạt động.
.
blank

3. Hoạt động trên biển Đông:

Trong thời gian đầu, dọc theo bờ biển VN ngoài hải phận quốc tế, tàu Cap Anamur ít tìm thấy ghe vượt biển. Do đó ủy ban đã thay đổi kế hoạch và được chính quyền liên bang Đức cho phép vào thả neo ở đảo Anambas trước trại tỵ nạn Air Raya. Nơi đây, Ủy Ban Bác Sĩ Cấp Cứu Người Đức (Deutsches Komitee Not-Ärzte e.V.) phối hợp với Ủy Ban Âu Châu đang hoạt động với tàu Ile-de-LumiereLysekil để săn sóc và giúp đỡ cho 35.000 thuyền nhân Việt Nam đang tỵ nạn tại đó. Các bác sĩ, y tá đã đến các trại tỵ nạn từ đảo Tanjung đến Anambas để săn sóc y tế cũng như để giúp đỡ người tỵ nạn trong trại qua việc phân phối gạo, sữa bột cho họ.

Theo tin tức thế giới, kể từ đầu tháng 2 năm 1980 làn sóng người vượt biển bắt đầu lan rộng trên biển Đông. Vào ngày 7.2.1980 ủy ban đưa tàu ra khơi, hoạt động trên tuyến đường từ bờ biển VN đến Thái Lan, Mã Lai Á, Tân Gia Ba và Nam Dương. Đặc biệt là vùng biển Mekong Delta và vịnh Thái Lan. Ra khơi lần nầy con tàu đã cứu được 2 ghe vượt biên gồm 65 người, trước sóng to gió lớn. Khó khăn nhất là, khi biển động mạnh thì tầm nhìn xa để tìm kiếm ghe vượt biên từ tàu Cap Anamur bị hạn chế vì ghe vượt biển quá nhỏ, chỉ thấy như một chấm đen. Khi ghe trụt xuống độ thấp của sóng biển thì những quan sát viên trên tàu không còn thấy gì cả. Do đó, ủy ban đã quyết định mướn một máy bay trực thăng để bay đi tìm kiếm ghe vượt biên ở từ xa.
.

Vì vậy, kể từ chuyến thứ 2, ủy ban phải trả tiền mướn trực thăng là 40.000 DM cho mỗi lần Cap Anamur ra khơi. Nếu thời tiết cho phép, hàng ngày trực thăng đều rời boong tàu và bay đi tìm kiếm ghe. Mỗi lần như vậy kéo dài khoảng 2 giờ rưỡi. Cùng đi với phi công có thêm những đại diện của đoàn y tế trên tàu. Họ mang theo ống dòm (Ferngläser), kể cả ống dòm hồng ngoại tuyến để tiện việc tìm kiếm ban ngày cũng như vào đêm. Mỗi khi trực thăng thấy được ghe vượt biển, phi hành đoàn tức thời thông báo về cho thủy thủ đoàn hoặc Ủy Ban Cap Anamur trên tàu biết. Lúc đó thuyền trưởng sẽ chỉ thị tăng tốc độ tàu tối đa để có thể đến địa điểm chiếc ghe được phát hiện càng sớm càng tốt, nhằm chận đứng mọi bất trắc có thể xảy ra. Đồng thời trực thăng bay vòng quanh gần ghe để cho biết thêm tin tức số người trên ghe. Song vào đó phi hành đoàn cũng thông tin cho thuyền nhân trên ghe biết rằng con tàu nhân đạo Cap Anamur đang tiến gần đến họ để họ yên tâm.

Nhờ có được máy bay trực thăng trợ giúp để tìm kiếm thuyền nhân, tính đến tháng 9 năm 1980, Cap Anamur đã cứu vớt được 3329 người sắp chết đuối và bị chìm nơi biển Đông.
.

Để hiểu rõ thêm, xin mời xem bài viết cùng tác giả:Tỵ Nạn và Cuộc Đời _Phần Một: Lần vượt biên sau cùng 23.06.1980:
http://navygermany.gerussa.com/main/van%20nghe/baivo/LanVuotBien%20sau%20cung.htm
.

4. Quảng bá và vận động ân nhân:

Vào khoảng tháng 8 năm 1980, ở mọi nơi công cộng và nhà ga xe lửa, xe buýt tại Tây Đức đều có dán, đăng và phổ biến một số tấm hình của thuyền nhân Việt Nam đã được Cap Anamur cứu vớt ở biển Đông nhằm kêu gọi dân chúng Đức mở rộng tình người tiếp tục ủng hộ cho Ủy Ban Bác Sĩ Cấp Cứu Người Đức của Con Tàu Cap Anamur. Nhờ vậy, Cap Anamur đã nhận được rất nhiều sự hỗ trợ từ tinh thần lẫn tài chánh của mọi giới trong dân chúng Đức, các hội đoàn từ thiện.v.v.. Họ đã chuyển vào trương mục của ủy ban nhiều triệu Đức Mã. Nhờ vậy con tàu Cap Anamur đã có thể hoạt động liên tục.

blank

.

Hình bên trái: Thuyền nhân trên biển khơi. Do phóng viên báo chí Gerard Klijn theo tàu Cap Anamur, chụp hình gia đình tác giả (vợ và 2 con) vào cuối tháng 6 năm 1980 trong lúc tàu đang cứu vớt ghe vượt biển ở vùng tam giác Việt-Mã-Thái trên biển Đông. Người phụ nữ năm ấy 26 tuổi, đang bế 2 con không còn mảnh áo che thân vì áo quần ướt hết trong lúc vượt biển. Vào tháng 8 năm 1980, tấm hình nầy được phổ biến khắp mọi nơi công cộng tại Đức. Người phụ nữ hiện nay dạy nấu ăn Việt Nam ở các VHS (VolksHochSchule: Bình Dân Học Vụ), Familienbildung Stätte (Trung Tâm Giáo Dục Gia Đình), hoặc ở các Học viện Institute hay Academy thuộc lãnh vực Nữ Công Gia Chánh.

Hình bên phải: Do nhà báo Đức chụp tại phòng đợi của phi trường Frankfurt am Main vào ngày đầu tiên đến Đức, 15.7.1980, gồm tác giả và 2 con. Tác giả là thuyền trưởng ghe thứ nhất vượt biên được Cap Anamur I, chuyến thứ 8 cứu vớt. Tấm hình diễn tả một con người hai tâm trạng và nói lên Niềm Vui Mới trước Ngưỡng Cửa của Tương Lai. Lúc nầy, 2 con có quần áo mới do Cap Anamur cấp phát khi rời khỏi Cap Anamur ở hải cảng Tân Gia Ba để lên đường đi qua Tây Đức. Năm ấy đứa con thứ hai (đứng giữa) 18 tháng và hiện nay là bác sĩ y khoa ngành nội thương, đã có phòng mạch tư năm 32 tuổi. Đứa con thứ nhất (đứng bên phải) 3 tuổi, hiện giờ là kỹ sư (Dipl.-Ing.) Systemtechnic và Kinh tế, và là IT-Director. Tác giả là kỹ sư điện (Dipl.-Ing.), chuyên ngành viễn thông, tốt nghiệp Gerhard Mercator University tại Duisburg năm 1987. Thật là một cuộc đổi đời!
.

5. Thành quả hoạt động của Cap Anamur:

Những nỗ lực với lòng nhân đạo tuyệt hảo của vợ chồng nhà báo Dr. Rupert Neudek và nhà văn Heinrich Böll nói riêng và Hội Bác Sĩ Cấp Cứu Người Đức cùng với nhiều ân nhân, chính quyền các cấp tại Đức nói chung, con tàu Cap Anamur đã thực hiện 3 giai đoạn đi vào biển Đông để cứu vớt 11.300 thuyền nhân Việt Nam:

Cap Anamur I: (Sept. 1979-Mai 1982): 9.507 người
Cap Anamur II: (März 1986-Juli 1986): 888 người
Cap Anamur III: (April 1987-Juli 1987): 905 người
.

6. Những Buổi Lễ Kỷ Niệm:

6.1 Lễ Khánh Thành Bia Tưởng Niệm tại Troisdorf năm 2007:

Trước năm 2009 thì các buổi Lễ Kỷ Niệm thường được tổ chức tại thành phố Troisdorf, cứ 5 năm một lần. Một thành phố cách cựu thủ đô Bonn khoảng 20 km, nơi mà ông bà Dr. Neudeck, sáng lập viên con tàu Cap Anamur cư ngụ. Cũng tại thành phố nầy, chiếc thuyền nan của thuyền nhân Việt Nam được Cap Anamur II cứu vớt vào cuối tháng 4 năm 1984, đã được chuyên chở về thành phố Troisorf và được chính quyền thành phố cho phép trưng bày tại khuôn viên của thành phố Troisdorf vào ngày 27.4.2007. Song vào đó, Bia Tưởng Niệm cũng được xây dựng tại đây.

blank

blank

.

Bia Tưởng Niệm được xây dựng tại khuôn viên Troisdorf nói lên lòng tri ân của thuyền nhân Việt Nam đối với chính quyền và nhân dân Đức, đặc biệt Dr. Ernst Albrecht - cựu Thống đốc Tiểu bang Niedersachsen, West Germany, là tiểu bang đầu tiên nhận người Việt tỵ nạn cộng sản và Ủy Ban Cap Anamur đã cứu vớt 11.300 thuyền nhân Việt Nam, đặc biệt là sáng lập viên Dr. Rupert Neudeck.

Là thuyền nhân được Cap Anamur cứu vớt, mỗi lần có tổ chức Lễ Kỷ Niệm ngày thành lập con tàu tại Troisdorf hay ở bất cứ nơi đâu tại Đức quốc thì gia đình tôi đều đi tham dự. Trước hết, để gặp lại các vị ân nhân người Đức cũng như gặp quý đồng hương để cùng hồi tưởng lại những đoạn đường vượt biển đầy gian lao khổ cực và rất nguy hiểm trước lưỡi hái tử thần ngoài biển khơi.
.

6.2 Bia Tri Ân và Tưởng Niệm của Thuyền Nhân Việt Nam tại hải cảng Hamburg:

Vào năm 2009, để đánh dấu 30 năm kỷ niệm con tàu Cap Anamur ra khơi cứu thuyền nhân Việt Nam, người Việt tỵ nạn cộng sản đã xây dựng tấm bia tại hải cảng Hamburg để tỏ lòng biết ơn nhân dân Đức, chính quyền liên bang Đức, chính quyền thành phố thương mại Hamburg - nơi xuất phát của các con tàu Cap Anamur, đã tiếp nhận người Việt tỵ nạn cộng sản. Cùng tri ân Ủy Ban Cap Anamur do Tiến sĩ Rupert Neudeck sáng lập, đã cứu vớt 11.300 thuyền nhân Việt Nam. Đồng thời để tưởng niệm các đồng hương tỵ nạn cộng sản đã bỏ mình trên đường vượt biển tìm tự do.

Trong buổi Lễ Khánh Thành có sự tham dự của sáng lập viên, cộng tác viên "Con Tàu Cho Việt Nam", Dr. Neudeck và nhiều chính khách, chính trị gia, nhà báo và đại diện các tôn giáo… Đặc biệt, có sự tham dự của Dr. Philipp Rösler, là người Đức gốc Việt, chủ tịch đảng FDP, Phó Thủ tướng nước CHLB Đức kiêm Bộ trưởng Bộ Kinh tế thời bấy giờ.

blank

6.3 Lễ Kỷ Niệm 35 Năm Một Con Tàu Cho Việt Nam:

Vào cuối tháng 5 năm 2014 tôi nhận được Thư Mời của anh Nguyễn Hữu Huấn, trưởng ban tổ chức Lễ Kỷ Niệm 35 Năm Một Con Tàu Cho Việt Nam gởi đến để vận động đồng hương hỗ trợ tài chánh cho việc tổ chức cũng như mời đến tham dự đông đủ vì có thể là buổi Lễ Kỷ Niệm cuối cùng vì sáng lập viên Con Tàu Cho Việt Nam, ông Dr. Neudeck khá lớn tuổi và sức khoẻ ngày càng yếu kém theo thời gian. Buổi lễ được tổ chức tại Bia Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam tại hải cảng Hamburg vào ngày 9.8.2014. Vợ chồng tôi rất vui và sắp xếp ngay thời giờ, công việc để đi Hamburg tham dự buổi lễ.
.

Từ nơi tôi ở đến Hamburg cũng không xa mấy, khoảng 550 km. Tôi để đồng hồ báo thức lúc 5:00 giờ để kịp khởi hành lúc 6:00 sáng. Trời xui đất khiến, đồng hồ reo hết pin lúc 3:00 giờ sáng. Thế là đồng hồ đứng yên. Nhưng trong cái xui cũng có cái may cho tôi, bà xã là người có bản tính hay lo lắng về giờ giấc, đã đánh thức tôi dậy lúc 4:45 giờ. Có lẽ bà ta sợ trễ giờ nên mất ngủ chăng? Thế là chúng tôi khởi hành đúng giờ giấc dự định. Chúng tôi đến địa điểm tổ chức khoảng 12:00 giờ trưa. Ở đó, chúng tôi gặp một số người đồng hương là thuyền nhân và bạn bè cùng chung đại học ở Duisburg là một cựu sinh viên du học có vợ là một người Việt tỵ nạn cộng sản bằng đường bộ. Lúc tôi vào đại học thì bạn ấy làm PhD cũng thuộc ngành viễn thông. Gặp nhau, anh ta hỏi tôi rằng tôi có đọc bài mới của anh viết chưa?. Tôi chưa kịp trả lời thì anh nói với bà xã của anh: "Đây cũng là cây viết của Hải quân đó". Tôi chỉ biết cười và nói: "Tôi mà viết lách gì anh" và tôi tiếp: "Rất là lạ, anh với tôi đều là dân kỹ thuật mà thấy anh viết kiếm hiệp sử luận, đọc rất hấp dẫn, đó mới là đáng ngưỡng mộ. À, tôi sẽ gởi bài mới viết "Hải đồ Mercator" của tôi để anh xem và nhớ lại danh xưng Đại học Gerhard Mercator mà chúng ta đã có một thời đi ăn ở Mensa của phân khoa Điện / Viễn Thông (Elektrotechnik / Nachrichtentechnik)''. Ngoài ra tôi còn gặp thêm rất nhiều bạn bè khác, tay bắt mặt mừng.

blank

.

Vợ chồng tôi rất vui mừng khi thấy Lễ Kỷ Niệm Một Con Tàu Cho Việt Nam năm nay đã thu hút rất nhiều bà con thuyền nhân Việt Nam, có khoảng trên 1000 người đến tham dự. Có rất nhiều đồng hương, mặc dù không được Cap Anamur cứu vớt cũng hiện diện trong buổi lễ. Thêm vào đó có rất nhiều đồng hương đến từ nhiều quốc gia khác trên thế giới.

Về phía người Đức có sự hiện diện của sáng lập viên Con Tàu cho Việt Nam, Dr. Neudeck và Ủy Ban Bác Sĩ Cấp Cứu Người Đức cùng các nhà báo, đại diện tôn giáo, chính quyền thành phố Hamburg. Song vào đó có những chính khách, chính trị gia như cựu Phó Thủ tướng (FDP) Dr. Rösler, hiện là Chủ tịch Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới tại Thuỵ Sĩ, cựu Phó Phủ tướng (SPD) ông Muterfering, ông Freimut Duve, Dân biểu Quốc Hội Liên Bang, Luật sư Burgkhard Müller-Söncksen, cựu Dân biểu Quốc Hội Liên Bang; ký giả Frank Alt, Giám đốc chương trình truyền hình Baden Baden, Dr. Med. Hans-Georg Tafel, cựu Bác sĩ cấp cứu trên tàu Cap Anamur và Bà Dr. Luise Druke thuộc đại học Havard cùng nhiều ân nhân khác đã đến tham dự.
.

Về phía Việt Nam, ngoài sự hiện diện của các vị lãnh đạo tinh thần của các tôn giáo còn có những đại diện các tổ chức đoàn thể không những tại CHLB Đức mà còn đến từ Hoa Kỳ như Ca Nhạc sĩ Nam Lộc, đại diện cho Trung Tâm Asia và đài truyền hình SBTN; ông bà Dương Phục và Thanh Thủy, Giám đốc đài phát thanh Việt Nam tại Texas, là những người đã từng tích cực phục vụ trên tàu Cap Anamur. Các ông Nguyễn Thành Công và ông Võ Thành Nhân, phóng viên đài SBTN. Ngoài ra còn có phái đoàn đại diện Liên Hội Người Việt Canada và Chủ tịch Ủy Ban Xây Dựng Viện Bảo Tàng Thuyền nhân tại Ottawa cũng dành nhiều thời giờ quý báu để qua Hamburg, Đức quốc tham dự buổi lễ.
.

Sau phần chào mừng và giới thiệu của ông Nguyễn Hữu Huấn, trưởng ban tổ chức, là phần phát biểu của Dr. Neudeck với lời mở đầu tràn đầy tình thương dành cho người Việt: "Tôi cũng là Người Việt Nam = Ich bin auch ein Vietnamese". Tiếp theo là phần phát biểu của các quan khách Đức. Ngoài ra, có anh John Nguyễn Khánh Hưng (đảng FDP) một thanh niên trẻ thế hệ thứ hai, sinh trưởng tại Đức đã nói về sự hội nhập của người Việt vào xã hội Đức. Anh hy vọng rằng những người trẻ tuổi người Đức gốc Việt cần giữ cả hai nền văn hóa và nên theo đuổi lãnh vực chính trị để sau này có cơ hội giúp quê hương Việt Nam. Xen kẽ những lời phát biểu của quan khách là những phần trình diễn các màn vũ cùng những bản hợp ca do các hội đoàn tại Đức trình diễn để giúp vui.

Buổi Lễ Kỷ Niệm 35 Năm Con Tàu Cho Việt Nam tại hải cảng Hamburg rất thành công, chấm dứt lúc 16:00 giờ. Sau đó mọi người cùng đến tham dự đêm văn nghệ được tổ chức vào lúc 19 giờ tại hội trường Đại học Quân sự Helmut-Schmidt Universität tại Hamburg-Jenfeld.

blank

blank

.

7. Thuyền nhân từ quan điểm của khoa học:

Nói đến con tàu của thế kỷ 20 - thế kỷ của thuyền nhân tỵ nạn cộng sản cũng là đề tài mà một số chuyên gia trên thế giới đã dày công nghiên cứu từ quan điểm của khoa học để làm sáng tỏ trên cơ sở những câu chuyện về cuộc sống của họ, cũng như hiện tượng của khả năng phục hồi. Về điểm nầy ông Nathan Caplan, sinh năm 1930, nhà tâm lý học người Mỹ, là giáo sư đại học Michigan đã đóng góp công sức thật hữu ích. Ông đã nghiên cứu các gia đình thuyền nhân Việt Nam đang định cư tại hải ngoại và nhận thấy rằng họ đặt giá trị gia đình rất mạnh mẽ. Thuyền nhân Việt Nam đã đề cao sự giáo dục. Điều nầy được giải thích và chứng minh rằng nhiều trẻ em trong số con cái của họ đã mang lại kết quả học hành rất tốt, trên trung bình.

Trong bối cảnh của Châu Âu, khoa học gia ngành giáo dục, ông Olaf Beuchling cũng đã khảo sát sự hội nhập của người Việt tỵ nạn tại Đức trong nghiên cứu rất giá trị của mình với tựa đề "Từ một thuyền nhân trở thành một công dân Đức": Di dân, hội nhập và thành công ở học đường trong một cộng đồng người Việt lưu vong. Ông cũng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của giá trị văn hóa và nó đã mang lại cho họ những kinh nghiệm.

blank

8. Tạm kết:

Nhân Lễ Kỷ Niệm 35 Năm Một Con Tàu Cho Việt Nam, tôi xin ghi lại vài nét về con tàu Cap Anamur, là ân nhân của tôi và gia đình nói riêng cũng như toàn thể thuyền nhân được Cap Anamur cấp cứu nói chung để tỏ lòng tri ân đến chính quyền liên bang, tiểu bang và nhân dân Đức, cũng như sáng lập viên ông bà Dr. Rupert Neudeck, nhà văn Heinrich Böll và toàn thể Ủy Ban Cap Anamur cùng các chính khách, chính trị gia, các hội đoàn từ thiện, các tổ chức tôn giáo, các hệ thống truyền thanh truyền hình, phóng viên báo chí, đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho con tàu Cap Anamur cứu vớt chúng tôi ngoài biển Đông cũng như tiếp nhận và giúp đỡ chúng tôi xây dựng một cuộc sống mới tại một xứ tự do dân chủ, nhân bản và pháp quyền. Đó là Con Tàu của Thế Kỷ 20.
.

KS Nguyễn Văn Phảy
Mùa hè 2014 tại Đức Quốc
http://navygermany.gerussa.com

.
,

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
Trong bài phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York hôm 23 tháng 9 năm 2025, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nói rằng, “Biến đổi khí hậu, bất kể điều gì xảy ra, các bạn đã bị cuốn hút vào đó rồi. Không còn việc hâm nóng toàn cầu nữa, không còn chuyện toàn cầu lạnh cóng nữa. Tất cả những tiên đoán này được thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức khác, thường là những lý do tồi và đều sai lầm. Chúng được tiên đoán bởi những kẻ ngu mà dĩ nhiên là số phận của đất nước họ và nếu tiếp tục thì những quốc gia đó không có cơ hội để thành công. Nếu các bạn không tránh xa khỏi trò lừa đảo xanh này thì đất nước của các bạn sẽ thất bại.” Đó là lời chứng rõ ràng được đưa ra trước cộng đồng quốc tế về quan điểm và hành động của chính phủ Trump chống lại các giá trị khoa học mà nhân loại đã, đang, và sẽ tiếp tục giữ gìn và thực hiện để làm cho cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ và hạnh phúc hơn.
Năm xưa, khi Benjamin Franklin rời khỏi Hội nghị Lập hiến năm 1787, một người phụ nữ hỏi ông: “Ngài Franklin, chúng ta có được chính thể gì, một nền quân chủ hay một nền cộng hòa?” Ông đáp: “Một nền cộng hòa, nếu các người còn giữ được nó.” Benjamin Franklin muốn nói, một nền cộng hòa, tức chính quyền của nhân dân, dựa trên luật pháp và trách nhiệm của người dân. Nền cộng hoà không tự bền vững, nó chỉ tồn tại nếu người dân có đủ phẩm hạnh, lý trí. Dân chủ không phải một thành quả, mà là thử thách liên tục. Câu nói ngắn gọn, đanh thép năm xưa của Franklin nay linh nghiệm, dưới thời Donald Trump.
Sáng nay, một post trên mạng xã hội của một người bạn làm tôi khựng lại: “Nếu không thích nước Mỹ, thì cuốn gói cút đi.” Câu đó khiến tôi nhớ về một buổi chiều hơn mười năm trước. Hôm ấy, nhóm bạn cũ ngồi quây quần, câu chuyện xoay về ký ức: Sài Gòn mất. Cha bị bắt. Mẹ ra tù. Chị em bị đuổi học, đuổi nhà. Và những chuyến tàu vượt biển không biết sống chết ra sao. Giữa lúc không khí chùng xuống, một người bạn mới quen buông giọng tỉnh bơ: “Các anh chị ra đi là vì không yêu tổ quốc. Không ai ép buộc dí súng bắt các anh chị xuống tàu cả.” Cả phòng sững sờ. Ở đây toàn người miền Nam, chỉ có chị ta là “ngoài ấy.” Vậy mà chị không hề nao núng. Ai đó nói chị “gan dạ.” Có người chua chát: “Hèn gì miền Nam mình thua.”
Trong cái se lạnh của trời Tháng Mười vào Thu, khi màu lá trên khắp nước Mỹ chuyển sang gam màu đỏ rực, vàng óng, thì một cơn bão đang âm ỉ sôi sục, len lỏi dưới bề mặt của cuộc sống người Mỹ. Gió càng thổi mạnh, cơn bão ấy sẽ càng nhanh chóng bùng nổ. Vỏn vẹn trong một tháng, nước Mỹ chứng kiến ba sự kiện chấn động, nức lòng những người đang dõi theo sự mong manh của nền Dân Chủ. Mỗi sự kiện diễn ra trong một đấu trường riêng của nó, nhưng đều dệt nên từ cùng một sợi chỉ của sự phản kháng kiên cường: bắt nguồn từ sự phỉ báng tính chính trực của quân đội; tước toạt thành trì độc lập, tự do của báo chí – ngôn luận; và những cú đánh tới tấp vào sức chịu đựng của người dân.
Hiểu một cách đơn giản, văn hoá là một khái niệm tổng quát để chỉ sự chung sống của tất cả mọi người trong cùng xã hội, bao gồm ngôn ngữ, phong tục tập quán, tôn giáo và luật pháp. Do đó, luật pháp là một thành tố trong toàn bộ các hoạt động văn hoá và có ảnh hưởng đến tiến trình phát triển xã hội, một vấn đề hiển nhiên...
Bất kỳ là ai, trẻ cũng như già, nữ cũng như nam, thật là tò mò, nếu chúng ta có thể biết được tương lai gần hoặc xa của mình, của người khác. Biết được tương lai là chuyện thú vị, hoặc căng thẳng, hoặc sôi nổi, hoặc sợ hãi. Ví dụ như bạn tiên đoán được ba tháng nữa sẽ gặp tai nạn hoặc cuối năm nay sẽ bị vợ ly dị. Nhưng có thể nào tiên đoán như vậy không? Làm gì có, chỉ là chuyện giả tưởng, chuyện phim ảnh và tiểu thuyết. Chuyện mấy bà phù thủy nhìn vào thau nước hoặc quả bóng kính trong thấy được chuyện mai sau, việc mấy ông thầy bói bấm tay nhâm độn, lật bài bói toán, v… v… chỉ thỏa mãn giấc mơ và tưởng tượng. Trong thực tế, chuyện đang xảy ra còn chưa giải quyết xong, nói chi chuyện ngày mai. Không đúng, nếu biết chuyện ngày mai thì chuyện hôm nay vô cùng dễ giải quyết. Ví dụ, “nếu biết rằng em sẽ lấy chồng, anh về lấy vợ thế là xong. Vợ anh không đẹp bằng em lắm, nhưng lấy cho anh đỡ lạnh lòng.” (Thơ vô danh). Thay vì cứ đeo đuổi hai ba năm sau, kéo dài buồn bã, đau khổ, để rồi “Lòn


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.