Hôm nay,  

Chị Tôi

10/09/201400:00:00(Xem: 5692)

Viết để kính yêu tặng chị tôi, Phạm Thị Thúy Diệp, một người suốt đời tận tụy săn sóc mẹ già, các em, các cháu.

Các cụ xưa thường nói làm chị lớn trong một gia đình đông con rất là khổ. Câu nói này có thể không đúng với thế hệ người Việt hiện nay nhưng hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh của chị tôi, một người con gái sinh ra tại Việt Nam trong thập niên 1940, một xã hội còn phần nào phong kiến lạc hậu.

Bố tôi thành hôn với mẹ tôi vào năm 1938 do sự sắp đặt của Ông Nội và Ông Ngoại của tôi, 2 trong số những vị quan lại cuối cùng của triều đại Nguyễn. Một năm sau anh cả tôi ra đời, năm sau đó là đến chị tôi và cứ thế mẹ tôi sòn sòn đẻ năm một hoặc ba năm hai...Như vậy là lúc chị tôi được 10 tuổi thì chị đã có 1 anh và 4 em. Khi bố mẹ tôi ra ở riêng thì anh cả của tôi được ông bà nội giữ lại nuôi vì vậy mà chị tôi trở thành người con lớn của gia đình phụ giúp mẹ tôi quán xuyến mọi chuyện...bế ẵm chăm sóc các em.

Bố tôi là Kỹ Sư Công Chánh của chính phủ thuộc địa Pháp đi công tác khắp Bắc Trung Nam và mẹ tôi thì xuất giá tòng phu nên luôn luôn dẫn con cái theo ông. Vào năm 1945 bố tôi đang công tác tại Thanh Hóa thì phần đất này bị Việt Minh chiếm,vì vậy mà gia đình tôi kẹt tại Thanh Hóa. Chính phủ Việt Minh bắt bố tôi làm việc ở Vạn Lại, thỉnh thoảng mới có phép về gập mặt gia đình. Trong khoảng thời gian này vì bố tôi ít có nhà, mẹ tôi lại tần tảo buôn bán ngoài chợ Thanh Hóa cho nên chị tôi hầu như phải gánh vác nhiều việc nhà: giữ em, lo cho các em ăn uống và nhiều chuyện lặt vặt khác mà mẹ tôi sai bảo...Chị tôi kể lại là những năm lúc chị 8 đến 10 tuổi chị thường phải cõng 1 đứa em trên lưng còn hai tay thì dắt anh kế tôi và tôi ra thăm mẹ buôn bán ngoài chợ Thanh Hóa. Kỷ niệm ghi nhớ là lúc chị 10 tuổi,mẹ tôi mới đẻ sanh đôi được ít hôm thì mưa bão làm sập một góc nhà, mẹ tôi thắp một ngọn đèn dầu sai chị tôi qua nhà người bác gần đó để xin giúp đỡ. Ngoài trời mưa bão tối đen như mực chị tôi sợ lắm không muốn đi, nhưng mẹ tôi nói “nếu con không đi thì ai đi bây giờ, mẹ còn phải ở lại trông các em”, chị tôi run sợ nhưng vẫn cố gắng mò mẫm trong đêm tối mưa gió lạnh để đến nhà người bác.

blank
Chị tôi 13 tuổi với 5 người em của chị (Hải Phòng 1953).

Vào năm 1951 bố tôi dàn xếp công tác mang gia đình trốn khỏi nơi Việt Minh chiếm đóng ở Thanh Hóa, về Hà Nội, xuống Hải Phòng làm việc và di cư vào Nam năm 1954. Trong khoảng từ năm 1951 đến năm 1961, mẹ tôi lại sinh hạ thêm được 5 người con nữa...Dĩ nhiên bên cạnh mẹ tôi, ngoài người làm, thì chỉ có chị tôi là người phụ giúp mẹ quán xuyến việc nhà, may vá quần áo và chăm sóc các em. Khi cần chị thay mẹ săn sóc 1 đàn em để mẹ yên tâm ra Huế lo tổ chức đám cưới cho anh kế tôi hoặc khi mẹ có việc phải đi xa.

Ngày còn trẻ chị cũng xinh đẹp và dễ thương có nhiều chàng trai theo đuổi. Thời là nữ sinh Trưng Vương có nhiều chàng kè kè xe đạp tán tỉnh chọc ghẹo chị... Rồi thời chị đi làm tại cơ xưởng của Công Binh VNCH cũng có nhiều chàng chiến binh cũng mong được làm bạn với chị, nhưng theo tục lệ cha mẹ đặt đâu con ngồi đó chị không dám tiến xa hơn. Vào tuổi cập kê cũng có nhiều mai mối đến hỏi chị, nhưng mẹ tôi là người rất thương con cộng thêm cái quan niệm môn đăng hộ đối, cứu xét tông ti họ hàng khi gả cưới...cân nhắc thận trọng nên chẳng đám nào thành và chị thì luôn luôn vâng lời mẹ...để rốt cuộc ở vậy không lấy ai cả.


Chị lấy cái vui của mẹ và gia đình các em là cái vui của mình.Chị luôn mong muốn được quây quần với mẹ và các em. Biến cố 1975 làm mọi gia đình tan tác,bố và các anh phải đi “lao động cải tạo”,thay mẹ chị tôi thăm viếng,tiếp tế lương thực,thuốc men. Chị phụ giúp tài chánh cho gia đình bằng cách cuốn thuốc lá bỏ mối ngoài chợ và đan thêu áo len gởi ra miền Trung bán.Lúc các em đi vượt biên bị bắt,chị lặn lội đi thăm nuôi các em và tìm đường hối lộ công an để bảo lãnh các em ra. Khi anh và các em được thả ra từ trại tù cải tạo Cộng Sản tìm cách vượt biên bằng đường bộ và đường biển thì chị lo lắng biết bao...và chị cũng vui mừng biết bao khi các anh em, các cháu đến trại tỵ nạn an toàn. Niềm vui mừng tột độ của chị là khi chị và mẹ được sum họp đoàn tụ với các anh chị em chúng tôi ở hải ngoại vào năm 1991. Chị luôn luôn hãnh diện là sau biến cố 1975 toàn bộ gia đình chúng tôi có 11 anh chị em cùng tất cả con cháu đều lần lượt định cư tại Mỹ không mảy may suy xuyển một người nào.

blank
Chị tôi tại Mỹ.

Có thể nói là chị tôi suốt một đời ở bên cạnh mẹ tôi phụ giúp cho việc lo lắng chăm sóc gia đình. Bố tôi thì luôn công tác xa nhà chỉ có chị tôi là người ở bên cạnh mẹ khi mẹ sanh nở. Dù là ở bất cứ nơi nào như Thanh Hóa, Quảng Yên, Hải Phòng và Saigon...nơi mẹ sanh con chị cũng là người thay tã, bế em, cho em bú sữa bình …mà không hề than van. Lúc còn trẻ thì phụ giúp mẹ nuôi nấng, may vá quần áo, nấu nướng cho các em. Khi các em lập gia đình có con cái thì lại lo lắng chăm sóc cho các cháu.

Nhưng phải nói công lao to lớn của chị là săn sóc mẹ tôi vào lúc bà tuổi già sức yếu. Những năm gần đây mặc dù đã trên tuổi 70, chị tôi ở bên cạnh mẹ 24/24 lo chăm sóc cho bà từ miếng ăn thức uống và luôn luôn chiều theo ý mẹ. Những năm sau này khi mẹ phải ngồi xe lăn thì việc săn sóc càng ngày càng cực nhọc hơn. Tuy vậy dù khổ cực đến đâu cũng chưa thấy chị than thở điều gì.

Tình yêu chị dành cho mẹ thật là trọn vẹn và bao la mà không người nào trong đám anh chị em của tôi so sánh được.Các anh chị em tôi bận rộn với sinh kế hàng ngày, với gia đình riêng nên có tới chăm sóc mẹ cũng chỉ vài giờ,còn chị thì ở sát bên mẹ ngày cũng như đêm. Cái đáng quý ở nơi chị là chị hầu hạ,chăm sóc mẹ mà không bao giờ kể lể công lao khó nhọc cho ai biết.

Chị Diệp ơi,

Tất cả các anh em cùng với các cháu đều thương yêu, biết ơn và quý trọng sự hy sinh cả một đời của chị cho đại gia đình, nhất là việc tận tụy chăm sóc mẹ vào lúc cuối đời của bà. Nay chị 74 tuổi rồi, chúng em mong chị cố gắng giữ gìn sức khỏe và vui sống tuổi già. Chúng em cũng muốn thu xếp để chị đi chơi đây đó, nhất là về thăm lại quê nội Đông Ngạc, quê ngoại Quảng Yên như ý nguyện của Mẹ… và đến các nơi như Thanh Hóa, Hải Phòng, Hà Nội… nơi mà chị hàng năm vẫn gửi tiền về giúp đỡ họ hàng cũng như người thân trước đây đã quen biết và thường nhắc nhở đến chị.

Người con thứ tư trong gia đình Pham-Huy-Quý: Phạm thị Thúy Mai (TV 59-66)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi thiên tai đổ xuống, thảm họa xảy ra, và con người với khả năng chống đỡ có giới hạn, thì những gì nhân loại có thể làm là cứu nhau. Ngược lại với nguyên tắc tưởng chừng như bất di bất dịch của một thời đại mà con người luôn hướng đến hòa bình và lương thiện, lại là các thuyết âm mưu tạo ra để lan truyền thù ghét và mất niềm tin vào chính quyền đương nhiệm. Đại dịch Covid-19 vĩnh viễn là sự thật của lịch sử Mỹ, trong triều đại của Donald Trump. Tòa Bạch Ốc của Trump lúc ấy, qua lời mô tả của những nhân viên trong ngày dọn dẹp văn phòng làm việc để bắt đầu bước vào giai đoạn “work from home” là “ngôi nhà ma.” Giữa lúc số người chết tăng theo từng giây trên khắp thế giới thì Trump vẫn điên cuồng xoay chuyển “tứ phương tám hướng” để kéo người dân quay về một góc khác của đại dịch, theo ý của Trump: “Covid không nguy hiểm.”
Mặc dù các bác sĩ tâm thần có bổn phận bảo mật các thông tin sức khỏe tâm thần do bệnh nhân tiết lộ, nhưng hầu hết các tiểu bang tại Hoa Kỳ đều có luật bắt buộc hoặc cho phép bác sĩ tâm thần tiết lộ thông tin bí mật khi bệnh nhân có triển vọng gây tổn hại cho cộng đồng...
Trong tuần lễ cuối cùng của chiến dịch tranh cử tổng thống vào năm 1980 giữa Tổng Thống Đảng Jimmy Carter (Dân Chủ) và ứng cử viên Ronald Reagan (Cộng Hòa), hai ứng cử viên đã có một cuộc tranh luận duy nhất vào ngày 28 tháng 10. Trong cuộc tranh luận, Reagan đã nêu ra một trong những câu hỏi quan trọng nhất trong mọi thời đại: “Hôm nay quý vị có khá hơn bốn năm trước hay không?” Câu trả lời của Carter là “KHÔNG." Cùng với một số lý do không kém quan trọng khác, số phiếu của ông đã giảm xuống vào những ngày quan trọng cuối cùng của chiến dịch tranh cử. Reagan đã giành được số phiếu phổ thông lớn và chiến thắng trong cuộc bầu cử.
Nobel là một giải thưởng cao qúy nhưng đó không phải là tất cả hay tối thượng mà, xét cho cùng, mục tiêu của nền văn học quốc gia hay bất cứ lĩnh vực nào khác đâu nhất thiết là hướng tới giải Nobel? Mahatma Gandhi đã năm lần bị bác giải Nobel Hoà Bình nhưng so với một Henry Kissinger hí hửng ôm nửa cái giải ấy vào năm 1973, ai đáng ngưỡng mộ hơn ai? Tuyên ngôn Nobel Văn Chương 1938 vinh danh nhà văn Mỹ Pearl Buck về những tác phẩm “diễn tả xác thực đời sống của nông dân Trung Hoa” nhưng, so với Lỗ Tấn cùng thời, nhà văn không chỉ diễn tả xác thực đời sống mà cả tâm não của người Trung Hoa, ai để lại dư âm lâu dài hơn ai?
Nếu mũ cối là biểu tượng của thực dân Tây phương vào thế kỷ 18 thì, bây giờ, “năng lượng tích cực”, như là diễn ngôn của thực dân Đại Hán với những dấu ấn đậm nét của tân hoàng đế Tập Cận Bình, đã trở nên gắn bó với người Việt, từ diễn ngôn của thể chế cho đến giọng điệu ngôn tình của những đôi lứa bỡ ngỡ trước ngưỡng cửa hôn nhân.
AI là trí tuệ nhân tạo. AI là một kho kiến thức nhiều vô cùng vô tận, đã siêu xuất chứa đựng nhiều thư viện nhân loại hơn bất kỳ dữ liệu tri thức nào, và cứ mỗi ngày AI lại mang thêm nhiều công năng hữu dụng, mà một người đời thường không thể nào có nổi kho tri thức đó. Trong khi đó, Thầy Tuệ Sỹ là một nhà sư phi thường của dân tộc, với những tri kiến và hồn thơ (như dường) phong phú hơn bất kỳ nhà sư nào đã từng có của dân tộc Việt. Câu hỏi là, AI có thể biểu hiện như một Tuệ Sỹ hay không? Chúng ta có thể gặp lại một phong cách độc đáo của Tuệ Sỹ trong AI hay không? Thử nghiệm sau đây cho thấy AI không thể sáng tác được những câu đối cực kỳ thơ mộng như Thầy Tuệ Sỹ. Để thanh minh trước, người viết không phải là khoa học gia để có thể hiểu được vận hành của AI. Người viết bản thân cũng không phải học giả về kho tàng Kinh Phật để có thể đo lường sự uyên áo của Thầy Tuệ Sỹ.
Israel và Iran đã âm thầm chống nhau trong một thời gian dài. Nhưng nhiều diễn biến sôi động liên tục xảy ra gần đây làm cho xung đột giữa hai nước leo thang và chiến tranh có nguy cơ bùng nổ và lan rộng ra toàn khu vực. Điển hình là vào tháng 4 năm nay, Iran công khai tấn công bằng tên lửa vào lãnh thổ Israel. Đầu tháng 10, Israel đã tấn công bằng bộ binh ở miền nam Lebanon. Trước đó, trong cuộc không kích vào trụ sở dân quân Hezbollah ở Beirut, Israel đã tiêu diệt thủ lĩnh Hezbollah là Hassan Nasrallah và nhiều nhân vật quan trọng khác.
Nhà báo Cù Mai Công vừa lên tiếng nhắc nhở đồng nghiệp (“Ráng Xài Tiếng Việt Cho Đúng, Xài Bậy, Dân Họ Cười Cho”) vào hôm 6 tháng 9 vừa qua. Ông dùng tựa một bản tin của báo Dân Trí (“Hai Kịch Bản Siêu Bão Yagi Tác Động Đến Đất Liền”) như một thí dụ tiêu biểu: “Trong toàn bộ các tự điển tiếng Việt xưa nay, ‘kịch bản’ nguyên nghĩa là bản viết cho một vở kịch, sau có thể mở rộng thành văn bản, bản thảo về nội dung cho một phim truyền hình, quảng cáo, phim ảnh, gameshow…
Trong nhiều ngày qua, Donald Trump và Cộng Hòa MAGA tung rất nhiều tin giả hay bóp méo và nhiều thuyết âm mưu liên quan đến cơn bão lụt Helene một cách có hệ thống. Mục đích để hạ đối thủ Kamala Harris và Đảng Dân Chủ. Theo tường thuật của CNN vào ngày 6/10, Cựu Tổng thống Donald Trump đã đưa ra hàng loạt lời dối trá và xuyên tạc về phản ứng của liên bang đối với cơn bão Helene. Theo MSNBC, “Những lời dối trá đó đã được khuếch đại bởi những người như tỷ phú Elon Musk, nhà lý luận âm mưu chuyên nghiệp Alex Jones và ứng cử viên Đảng Cộng hòa đang dính nhiều bê bối cho chức thống đốc Bắc Carolina, Mark Robinson. Dân biểu Marjorie Taylor Greene, một đồng minh trung thành của Trump.” Ngay cả Hùng Cao, một nhân vật MAGA mới bước vào chính trường cũng góp phần vào việc nấu nồi canh hẹ này.
“Luật Phòng Chống tham nhũng ở Việt Nam năm 2005 nêu rõ: Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để vụ lợi.”



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.