Hôm nay,  

Sự Lựa Chọn Chính Thể

20/09/201400:00:00(Xem: 3876)
Đối với một quốc gia mà nói, việc lựa chọn chính thể cũng giống như tìm cho mình một con đường đi vậy. Con đường đó đúng hay sai, bằng phẳng hay gập ghềnh, hạnh phúc hay khổ đau, đều tùy thuộc vào quyết định tối quan trọng này. Chính vì như vậy, cho nên cần có sự tham gia ý kiến và quyết định của toàn dân. Trọng trách đó phải được người dân ủy nhiệm thông qua những cơ quan có đủ năng lực. Phải được cân nhắc và lựa chọn bởi một chính phủ đa thành phần, gồm có sự tham gia rộng rãi của tất cả các đảng phái, tổ chức và cá nhân. Vì rằng, nếu quyết định này rơi vào tay một cá nhân độc đoán hay đảng phái duy nhất thì sẽ dẫn đến sự thiên vị. Theo đó mà lợi ích tối cao của nhân dân cũng ngang nhiên bị tước đoạt.

Sức mạnh của một đất nước tùy thuộc vào phương pháp và cách thức mà người ta tổ chức quyền lực nhà nước. Cho nên cần phải có một hình thức chính thể đúng đắn, một cấu trúc nhà nước hợp lý, và chế độ chính trị tốt đẹp. Nếu 3 yếu tố này kết hợp với nhau một cách nhuần nhuyễn, thì tiềm lực và sức mạnh của dân tộc sẽ được phát huy hiệu quả nhất, nhằm xây dựng một đất nước hạnh phúc và phồn vinh.

Bây giờ là thời đại của tự do dân chủ, khái niệm “Dân chủ” trở thành cơ sở lý luận, là mục tiêu của mọi nỗ lực chính phủ. Người dân có quyền lựa chọn bộ máy nhà nước, giám sát tính đúng đắn và hiệu quả của nó. Các cơ quan quyền lực này không có nhiệm vụ nào khác ngoài trách nhiệm phục vụ tổ quốc và nhân dân. Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều theo chính thể cộng hòa dân chủ (là hình thức mà trong đó, quyền bầu cử và giám sát bộ máy nhà nước thuộc về toàn thể nhân dân). Các quốc gia này được gọi là dân chủ. Mặc dù vậy, trên thực tế vẫn có những quốc gia tự nhận mình là “cộng hòa dân chủ” nhưng lại là một chế độ độc tài trá hình: Nói là dân chủ,nhưng chỉ có một đảng duy nhất được phép cầm quyền. Thực chất đó là những chế độ dân chủ giả hiệu, kẻ cai trị tự đặt ra những quy định nhằm hạn chế hoặc vô hiệu hóa quyền làm chủ của nhân dân. Trong số này, các nước Cộng Sản là những ví dụ điển hình nhất.

Điều cốt yếu trong quản lý nhà nước, là người dân có thể tham gia rộng rãi vào việc thành lập các cơ quan đại diện từ trung ương đến địa phương. Người dân thực sự được trao quyền làm chủ, chứ không phải một cơ quan hay đảng phái nào làm thay điều đó. Các quyền này phải được quy định cụ thể trong một bản hiến pháp dân chủ (đa đảng) thì mới có tính khả thi. Trong các chế độ độc đảng thì khái niệm “dân chủ” chỉ mang tính hình thức mị dân, quyền lực nhà nước thực chất nằm trong tay đảng độc tài.

Đối với chế độ chính trị, thì đó là những phương pháp mà bộ máy nhà nước sử dụng để thực thi quyền lực và quản lý đất nước. Cho nên, trong chế độ dân chủ thì quyền lực nhân dân được thực thi, đất nước phát triển dựa trên ý nguyện của người dân. Các quyền tự do dân chủ được phát triển rộng rãi mà không hề bị hạn chế. Ngược lại, trong thể chế độc tài phản dân chủ, ý chí của đảng cầm quyền được thực thi, trong khi quyền lực nhân dân lại bị tước bỏ. Để mị dân, chế độ độc tài ban phát một số quyền tự do, dân chủ hạn chế. Nhưng một khi người dân đòi hỏi các quyền đó ở mức cao hơn, ảnh hưởng đến quyền lợi của nhà nước thì lập tức họ sẽ bị đàn áp.


Lịch sử văn minh nhân loại, đất nước nào cũng cố gắng lựa chọn cho dân tộc mình một chế độ chính trị thích hợp và tiến bộ nhất. Mục tiêu là để phát triển đất nước, nhân dân hạnh phúc, và dân tộc phồn vinh. Ở các quốc gia dân chủ hiện nay, chủ yếu tồn tại hai hình thức chính thể: Quân chủ lập hiến và Cộng Hòa.

Các nước có chính thể “Quân chủ lập hiến” đều có nguyên nhân lịch sử và chính trị riêng. Tuy nhiên vai trò của hoàng gia cũng chỉ mang tính biểu tượng, mà không ảnh hưởng đến quyền lực của nhân dân. Một số quốc gia quân chủ lập hiến tiêu biểu như: Anh, Nhật Bản, Hà Lan, Thái Lan…; đối với chính thể “Cộng hòa”, thì đây là hình thức tổ chức chính quyền phổ biến nhất ở các quốc gia dân chủ. Điểm tiến bộ nhất của nó là nhân dân được trao quyền lực một cách vô hạn định. Chính thể cộng hòa được phân chia thành hai hình thức: Tổng thống chế và Đại nghị chế. Trong đó thì Cộng hòa tổng thống là hình thức dân chủ trực tiếp, với vai trò to lớn của nguyên thủ quốc gia (tổng thống). Người dân trực tiếp bầu ra tổng thống chứ không phải là nghị viện (quốc hội).

Trong một thể chế dân chủ, người ta có thể lựa chọn đồng minh mà vẫn không bị phụ thuộc, không mất đi độc lập và chủ quyền. Vì các quốc gia dân chủ xử sự trên tinh thần bình đẳng và tôn trọng luật pháp quốc tế. Trong thể chế độc tài thì lại khác, việc lựa chọn đồng minh hay quan hệ hợp tác là xuất phát từ lợi ích của đảng cầm quyền. Ví như quan hệ Việt Nam – Trung Quốc chẳng hạn. Mặc dù họ tuyên bố là quan hệ “đồng chí anh em”, nhưng thực chất là Việt Nam bị Trung Quốc lấn lướt trong mọi tình huống. Dẫn đến việc Trung Quốc ngang nhiên xâm chiến biển đảo của Việt Nam. Trong khi đó nhân dân Việt Nam phản đối thì lại bị chính phủ đàn áp.

Việc lựa chọn chính thể có vai trò rất quan trọng đối với một quốc gia, nó quyết định đường lối đối nội lẫn đối ngoại. Từ đó mà xác định hướng đi và phát triển của đất nước. Trên cơ sở đó, người ta có thể lựa chọn sự liên minh với các khối, hay đồng minh chiến lược. Cũng có thể đất nước đó lựa chọn trung lập (không tham gia bất cứ liên minh chính trị, quân sự nào), hoặc là trung lập tạm thời hoặc trung lập vĩnh viễn (Thụy Sĩ chẳng hạn). Tùy vào hoàn cảnh và nhu cầu, mà chính phủ sẽ lựa chọn cho quốc gia mình một vị thế thích hợp.

Tóm lại, muốn có một chính thể tốt nhất chúng ta phải đấu tranh quyết liệt để chấm dứt tình trạng độc tài toàn trị hầu có thể xây dựng một chính thể cộng hòa thực sự dân chủ qua con đường Tổng Tuyển Cử Tự Do.

Viết từ Việt Nam ngày 16/09/2014

Minh Văn (ĐVDVN) -- Nguồn: www.dangvidan.net

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
Biển Đông hiện như một thùng thuốc súng và, liệu nếu xung đột bùng ra, chúng ta có phải đối phó với một quân đội Trung Quốc man rợ mà, so với quân đội Thiên hoàng Nhật trong Thế chiến thứ hai, chỉ có thể hơn chứ khó mà bằng, đừng nói chuyện thua? Như có thể thấy từ tin tức thời sự, cảnh lính Trung Quốc vác mã tấu xông lên tàu tiếp tế của Philippines chém phá trông man rợ có khác nào quân cướp biển từ tận hai, ba thế kỷ trước? [1] Rồi cảnh chúng – từ chính quy đến dân quân biển, thậm chí cả ngư dân – trấn lột, cướp phá, hành hung và bắt cóc các ngư phủ Việt Nam từ hơn ba thập niên qua cũng thế, cũng chính hiệu là nòi cướp biển.
Hội nghị Trung ương 10/khóa đảng XIII kết thúc sau 3 ngày họp (18-20/09/2024) tại Hà Nội nhưng không có đột phá nào, mọi chuyện vẫn “tròn như hòn bi” dù đây là hành động đầu tiên của tân Tổng Bí thư Tô Lâm...
Việc nhà hoạt động dân chủ Trần Huỳnh Duy Thức được nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do trước thời hạn có lẽ là một trong những vấn đề đã được nội các chính quyền Biden-Harris quan tâm và vận động từ năm 2021.
Đối với triết gia Immanuel Kant, lời nói dối là “cái ác bẩm sinh sâu xa trong bản chất con người” và cần phải tránh xa ngay cả khi đó là vấn đề sống còn1. Trong tác phẩm “Deciphering Lies”, Bettina Stangneth, 2017, viết rằng: “Trong số những lý do khiến người ta nói dối vì điều đó có thể giúp họ che giấu bản thân, ẩn náu và tránh xa những người xâm phạm vùng an toàn của họ.” Stangneth cho biết thêm, “cũng không khôn ngoan khi thả trẻ em ra thế giới mà không biết rằng người khác có thể nói dối chúng.” The Wasghington Post, ban kiểm tra sự thật, cho biết: Trong bốn năm làm tổng thống thứ 45, từ 2017-2021, đến cuối nhiệm kỳ, Trump đã tích lũy 30.573 lời nói dối trong suốt nhiệm kỳ tổng thống - trung bình khoảng 21 lời tuyên bố sai lầm mỗi ngày. Từ khi thua cuộc tái ứng cử vào tay tổng thống Joe Biden cho đến giờ này, tranh cử với bà Harris, ông Trump càng gia tăng khẩu phần nói dối, phong phú đến mức độ không thể đếm cho chính xác.
Câu chuyện hoang tưởng “di dân ăn thịt chó, mèo” của Donald Trump và JD Vance gây ra nỗi sợ hãi, tạo ra nhiều kích động tiêu cực, vì nó được nói ra trước 81 triệu dân Mỹ, từ một cựu tổng thống. Những lời vô căn cứ tràn đầy định kiến và thù hận đó như một bệ phóng cho con tàu “Kỳ Thị” bay vút vào không gian của thế kỷ 21, thả ra những làn khói độc. Nó như một căn bệnh trầm kha tiềm ẩn lâu ngày, nay đúng thời đúng khắc nên phát tán và lan xa. Nói như thế có nghĩa, con tàu “Kỳ Thị” này, căn bệnh này, vốn đã có từ rất lâu đời. Nó âm ỉ, tích tụ, dồn nén theo thời gian, chực chờ đến ngày bùng nổ. Một tuần qua, người Haiti, là nạn nhân của cơn bùng phát này. Gần nửa thế kỷ trước, và cho đến tận nay, là cộng đồng người gốc Việt.
Sự trỗi dậy của những nhóm cực hữu đang làm sống lại làn sóng kỳ thị chủng tộc, một căn bệnh trầm kha chưa bao giờ thực sự chấm dứt ở Hoa Kỳ. Để thực hiện những chương trình nghị sự của mình, những người theo chủ nghĩa thượng tôn da trắng đã thực hiện nhiều chiến lược, chiến thuật khác nhau. Trong những năm gần đây, nhiều nhà hoạt động đã cảnh báo các nhóm cực hữu đang cố sử dụng nền tảng giáo dục làm công cụ để bảo vệ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Một bài viết trên trang mạng lithub.com của tác giả Jason Stanley đã phân tích sâu sắc về đề tài này.
Nhìn ở bề ngoài thì ông Benjamin Netanyahu, Thủ tướng Do Thái, đang làm cái việc của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) Nguyễn Văn Thiệu từng làm với cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ 1968. Năm đó ông Thiệu bị cáo buộc là hành động để đảng Dân Chủ thua đảng Cộng Hòa còn bây giờ thì, xem ra, ông Netanyahu lại đang tháu cáy với nước cờ tương tự tuy nhiên bản chất hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.