Hôm nay,  

Dị Ứng

25/10/201400:00:00(Xem: 5649)
Mùa hè nơi xứ hoa tulp có nhiều hoa thơm cỏ lạ, có nhiều thời gian, lại có Euro rủng rỉnh ở trong bóp, do tổ chức xã hội của xứ này tính toán rất chi ly và khéo. Ở Hòa Lan dù trong tuổi đi làm hay đã về hưu thì cứ đến mỗi đầu mùa hè vào tháng 06 là có một số tiền vào số băng của mình, gọi là tiền đi nghỉ hè. Do vậy, những người ở độ tuổi thành niên là có số tiền ấy để đi du ngoạn mùa hè, số tiền khoảng 5, 7 trăm euro. Lẽ dĩ nhiên, không đi đâu thì số tiền đó dư ra, nhiều năm dư nhiều, có dư luận phải trả lại (tin này chưa kiểm chứng). Chính vì có tiền nên phải đi du lịch, nhiều thì đi xa, ít thì đi gần. Vãn cảnh vài nước Âu Châu bằng xe du lịch có sẵn là điều dễ dàng với người dân ở Hòa Lan.

Chính vì có đi mới biết thêm phong cảnh của những nơi, những nước, những gia đình cùng chung cảnh ngộ tỵ nạn ở các nước lân cận, mà lúc đầu mới đến, hay đến tham quan ở các thủ đô, có những di tích lịch sử liên quan đến Việt Nam như Paris Pháp. Geneve Thụy Sĩ. Những nơi chỗ có diễn ra những cuộc họp lịch sử chia đôi đất nước Việt ra làm hai từ vĩ tuyến 17, ngày 20-07-1954. Hoặc nước Pháp mà Việt Nam bị làm thuộc địa cả trăm năm, nên nền văn hóa Pháp ảnh hưởng sâu đậm đến dân tộc Việt đã nhiều đời trước khi Việt Minh lên cầm quyền.

Ở lâu, ổn định mới nhàn du đến các quốc gia lân lận, vào tận các gia đình đồng hương Việt Nam cùng cảnh ngộ vượt biển, vượt biên năm nào tránh nạn cộng sản, vì cộng sản cực kỳ dã mãn đã cùm kẹp dân tộc Việt Nam từ những năm 1945 thế kỷ trước đến nay (hồi còn bị Pháp đô hộ). Và sau này có tiếng là độc lập từ năm 1954, một nửa nước Việt là miền Bắc do Hồ Chí Minh và đảng CS lãnh đạo, miền Nam theo Tự do dân chủ do Ngô Đình Diệm lãnh đạo. Nhưng vào ngày 30-04-1975 thì miền Bắc lại đem quân tràn vào xâm chiếm và cai trị cả miền Nam, nên mới có sự kiện như hôm nay. Việt Nam cả hai miền đều tứ tán vượt biên vượt biển xa lánh bọn Cộng Sản.

Hồi mới ra nước ngoài tỵ nạn không ai nói đến bệnh dị ứng vì ăn nhiều thịt, nhiều mỡ, ăn nhiều đồ chiên, hoặc dị ứng vì phấn các loại hoa. Một phần vì lúc đó Việt Cộng còn thù ghét người vượt biên, đến lúc Việt Cộng kiệt quệ về kinh tế quá, cả nước đói muốn sắp chết, phải mở cửa để có tiền vào, mở cửa để người tỵ nạn mau quên về cho có ngoại tệ. Nhờ có mùi đô la, Việt Nam mới chỗi dậy. Từ đó, từ trong nước đến ngoài nước dân Việt Nam dùng từ dị ứng hơi nhiều, và ngày nay thì từ đó dùng thường xuyên.

Tôi bị dị ứng trong kỳ đi nghỉ hè không phải vì phấn các loại hoa, cũng không vì mập quá do ăn nhiều đồ chiên lắm dầu mỡ, cũng không vì lạnh quá vào mùa đông, vì nhà có lò sửa rấp ấm vào mùa lạnh. Mà dị ứng khi bước vào phòng khách một gia đình tỵ nạn Việt Nam có hình thủy tổ cộng sản Việt Nam là hình Hồ Chí Minh, đặt ngang hông cửa sổ phía trước, không hoa, không đèn và cũng không trang trọng như những hình thấy ở trong tin tức hay trong internet; cái hình ảnh 31 năm qua tôi không bị nhìn thấy khi bước vào hội trường hay các phòng để hội họp ở xứ người. Lâu lâu có thấy trên màn ảnh của internet vào các dịp lễ lớn ở Việt Nam, hay khi các lãnh tụ cộng sản Việt Nam tiếp các yếu nhân của nước ngoài đến Việt Nam. Theo thủ tục ngoại giao khi các lãnh tụ của các nước tư bản đến Việt Nam để thảo luận với các lãnh tụ của Cộng Sản thì bao giờ cũng thấy tượng Hồ Chí Minh đặt trang trọng ở giữa phòng, có hoa, đèn rất trang nghiêm.

Chuyện vãn một hồi với gia chủ mới hay, ông bà này thủa đầu đến đây cũng tỵ nạn bằng thuyền, cũng sống chết trên biển, cũng thất thểu long đong, cũng bị ở trong một trại cấm đến mấy năm mới được đi định cư ở xứ người qua diện nhân đạo. Người ra đi tỵ nạn cộng sản sau 30-04-1975, không phân biết Bắc, Nam, Trung, ra đi bằng đường biển hay đường bộ, miễn là gặp nhau ở chân trời khác, có tự do, có dân chủ và có nhân quyền là mừng rồi. Tại bởi vì họ cùng nói tiếng nói với tôi, vì cùng sinh ra trong một đất nước, cũng gần thời gian, cùng màu da, cùng ra đi vì trốn cộng. Có điều chắc tôi thù ghét thủy tổ cộng sản Việt Nam nhiều, vì nhờ ở nước ngoài, có thời gian và phương tiện lại hoàn toàn tự do tìm hiểu, nên đọc nhiều, biết nhiều về Hồ Chí Minh. Nếu cứ ở trong nước thì sự hiểi biết của tôi về Hồ Chí Minh chắc cũng không hơn người ở trong nước hiện nay là bao nhiêu, dù đã chạy cộng sản đến 2 lần. Thủy tổ cộng sản là Hồ Chí Minh, băng đảng của ông là Lê Duẫn, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh Võ Nguyên Giáp... và các lớp đàn em về sau cho đến bây giờ. Phần đông người ở trong nước, anh chị em của tôi; người tỵ nạn ở nước ngoài, cũng không biết nhiều về Hồ Chí Minh và đảng của hắn. Họ chỉ biết qua tuyên truyền về con người của Hồ Chí Minh do đảng nắn ra; mà tuyên truyền với người cộng sản thì hết nói, nói dối như vẹm (cộng sản), nói dối riết thành thật, nên cả nước tôi hiện nay, người ta chỉ tin vào điều giả dối, vì đảng cộng sản đã đào tạo nên những con người như vậy.

Đúng là “vô tri bất mộ” không biết thì làm sao mà yêu mến được, không biết thì làm sao ghét cay ghét đắng như tôi với Hồ chí Minh và đảng cộng sản được. Không biết thì làm sao mà bị dị ứng khi thấy hình tướng của hắn. Hắn là tác giả đã cõng rắn cộng sản về cắn dân tộc Viện của chúng ta, đã đày đọa cả dân tộc Việt Nam từ những năm đầu của thế kỷ 20. Vì bất mãn không được ăn học tử tế do người cha làm quan cho Pháp đánh chết một tù nhân trong lúc say rượu, bị mất chức, phải đổi nghề làm thấy thuốc nay đây mai đó kiếm cơm độ nhật cho gia đình. Hồ Chí Minh phải đi làm thuê làm mướn, xin vào học trường thuộc địa để ra làm quan cho Pháp cũng không được chấp nhận cho học, mới chạy theo lý tưởng mới cộng sản, rồi đem lý thuyết này về tròng lên đầu dân tộc Việt, với danh nghĩa chống thực dân. Nhưng thực tế là lợi dụng thực dân để tàn sát những người yêu nước khác, đưa đất nước đến điêu đứng, từ điêu đứng này đến điêu đứng khác từ đấu thế kỷ 20 cho đến giờ, dân tộc Việt không ngóc đầu lên được. Tên đầu xỏ này cùng với băng nhóm cộng tác của y đã biến đất nước Việt thành bãi chiến trường. Đảo lộn luân thường đạo lý, bằng những chính sách quái gở long trời nở đất như: cải cách ruộng đất hồi năm 1957 ở miền Bắc, giết oan ức hàng trăm ngàn người, giết và đấu tố cả những người đã có công nuôi dưỡng Hồ Chí Minh và và bè lũ của chúng như bà Nguyễn Thị Năm, người đã đóng góp nhiều vàng bạc, thóc gạo nuôi lớp cộng sản thủa ban đầu. Tớ đứng lên tố chủ, trò đứng lên tố thầy, đưa lũ vô danh tiểu tốt thất học lên làm chánh án tòa án cách mạng, xỉ nhục những người thủa trước làm ơn, nuôi nấng mình. Thanh trừng lớp trí thức qua Nhân Văn Giai Phẩm, dụ khị và bắt giam những người có công, có lòng. Qua những bài học lịch sử đau thương đó, 60 năm sau Cộng Sản làm lại cuộc triển lãm về cuộc cải cách ruộng đất, đã bị công chúng Việt Nam tẩy chay vào tháng 9-2014 vừa qua, vì thiếu những hình ảnh thực, toàn giả tạo, giả dối.


Hồ Chí Minh còn được tô vẽ là yêu nước thương nòi, không vợ không con tự xưng mình là bác của cả dân tộc Việt khi còn rất trẻ. Nhưng dân Việt có biết đâu, một con người xảo trá, tự tâng bấc, viết tiểu xử về mình qua bút hiệu Trần Dân Tiên. Lắm con nhiều vợ, đi đến đâu, ở nước nào là có vợ ở nước đó, nhưng theo chính sách, đường lối của cộng sản chỉ là nữ hộ lý thôi. Dã man hơn, khi bị lộ tẩy thì giàn cảnh giết chết như trường hợp chị em cô Xuân người Nùng khi đã về ở thủ đô Hà nội.

Càng biết về cộng sản Việt Nam, càng thù hằn và dị ứng khi thấy hình Hồ Chí Minh bất cứ ở nơi đâu, dù ở trong nhà một kẻ không biết, hay một kẻ mới được sinh ra sau năm 1975.

Mỗi lần thấy, nhớ về cuộc đấu tố ở miền Bắc hồi năm 1957. Mỗi lần thấy cái đảng khốn nạn này chuyển những người trẻ miền Bắc vào Nam trên đường mòn Hồ Chí Minh, từ việc tuyển quân ở xã ấp miền Bắc, đến đoạn đường Đường Trường Sơn, họ bị chết vì kham khổ cực nhọc trên đường đi, bị máy bay B-52 bỏ bom mà lòng quặn đau bị dị ứng. Và còn dị ứng hơn nữa khi những thế hệ còn sống hiện nay, những thế hệ là hậu quả của những chính sách tàn độc đó, không chịu đọc, học, để biết những kẻ đã đầy đọa mình, dân tộc mình vào chỗ chết. Và chính thân phận mình phải đi lưu vong tỵ nạn ở nước người, sống cô đơn đời tỵ nạn. Chưa kể vì ngu dốt họ đã chắt chịu tiết kiệm để hàng năm mua vé về thăm cái đảng khốn nạn ấy, nó đang cướp đất của người dân nghèo khó, bắt và đánh chết người trong các đồn công an, ngăn cấm dân chúng biểu tình chống đối việc dâng đất dâng biển dâng hải đảo cho quan thấy đàn anh Trung Cộng, mà không đi du lịch ở đâu khác để mở mang thêm sự hiểu biết.

Dị ứng vì sự mau quên của người tỵ nạn cộng sản, vì y mà chính bản thân mình bị tán gia bại sản, trốn chui trốn lủi để ra đi, ra đi được rồi chưa bao năm sau đã quên mất cảnh khốn đốn thủa nào sau 30-04-1975. Đói khổ, cơm phải độn với khoai sắn, bo bo, những thứ mà trước ngày đó chỉ có thú vận như heo mới ăn; những ngày tháng xếp hàng rồng rắn để mua thịt, mua đướng, mua vải, mau quên những câu ca dao châm biếm hôm nào:

“Một năm hai thước vải thô,
nếu đem may áo cụ hồ ló ra,
may áo thì hở lá đa
chị em thiếu vải hóa ra lõa lồ,
vội đem cất ảnh bác hồ,
sợ rằng bác thấy tô hô bác thèm”.

Hoặc nghe câu thơ của dân gian Hà Nội mỗi khi nhìn tượng Lê-nin ở vườn hoa của thành phố:

“Lê-nin quê ở nước Nga,
Cớ sao lại đứng vườn hoa nước này?
Ông vênh mặt ông chỉ tay:
Tư do hạnh phúc lũ mày còn xa,
Kìa xem gương của nước Nga.
Bảy mươi năm lẻ có ra đếch gì”.

Mỗi khi nhìn thấy hình dạng “Bác” thì cuốn phim trong đầu tôi lại quay chậm lại từ ngày cướp chính quyền của “Bác”. Đến Hiệt Định Paris 20-07-1954, cuộc ra đi tìm tự do của hàng triệu người từ miền Bắc, bỏ hết tài sản tìm đường vào Nam tìm tự do. Đến cuộc đấu tố cải cách ruộng đất ở miền Bắc hồi năm 1957. Đến những đoàn thanh niên nam nữ sinh bắc tử nam rồng rắn trên đường mòn đường Trường Sơn, bị chết dần chết mòn vì sốt rét, thiếu phương tiện, thiếu thuốc men và còn bị chết vì B-52 rải bom. Đến những vụ Mậu Thân 1968, mùa hè đỏ lửa 1972, đến đại lộ kinh hoàng, đến những ngày rút quân bỏ Quân khu I và Quân Khu II, rồi cuối cùng đến ngày 30-04-1975 tại Sài Gòn. Sau đó cả miền Nam tan hoang và rách nát, những người được họ kêu gọi đi học tập 10 ngày mà không trở về, nạn đổi tiền, lùa dân đi kinh tế mới, những ngày tháng ăn độn bo bo, làn sóng vượt biên vượt biển, những xác chết bồng bềnh trôi dạt từ biển khơi vào bờ của những nạn nhân đi vượt biên, những nhà tù, những cái gọi là trại cải tạo. Thật vô cùng đau khổ cho con người khi chủ nghĩa Cộng Sản có mặt, khi nào có “Bác” có đảng của hồ tặc xuất hiện là dân tộc Việt còn đau khổ. Và cho đến hôm nay đất nước ta do đảng của Hồ Tạc lãnh đạo tiến tới đâu, thì để người dân ở trong nước và những người chạy trốn cộng sản ở hải ngoại trả lời thay cho người viết.

Trước đây ở thủ đô tỵ nạn cũng đã có một người, ăn cơm Quốc Gia thờ ma Hồ Chủ Tịch, đem hình ông Hồ treo trong cửa tiệm, đã bị đồng hương Việt Nam ở thủ đô này chống đối ra mặt, biểu tình phản đối liên tục cho đến khi phải bỏ tấm hình xuống. Vì họ có suy nghĩ, ở ngay thủ đô tỵ nạn này mà còn có kẻ chạy bám theo người vượt biển, vì sợ hãi cộng sản phải chạy trốn. Những thứ người này thật kỳ dị, nếu yêu bác và đảng thì cứ sống ở trong nước với cộng sản, trà trộn chạy ra nước ngoài làm gì. No cơm ấm cật, chỉ lo làm giầu mà không tìm hiểu tận nguồn cơn, lý do mình phải chạy trốn thì nên đề nghị với chính quyền các nước đã nhận người tỵ nạn thủa đầu, cứu xét lại, trả họ trở về Việt Nam sống với Bác và Đảng.

Chính vì bị dị ứng như vậy nên kẻ viết hạ quyết tâm, nhờ những người nhớ bác, nhớ đảng về thăm quê hương, mua cho một bức tượng bác đem qua nước ngoài, để lập am, lập miếu ở vườn sau nhà, cũng phải tìm nơi kín đáo để hàng xóm khó thấy, mỗi ngày vài lần ra thăm bác cho thỏa thích thần tượng mà mỗi lần thấy hình hay nhắc tới bác là bị Dị Ứng./-

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.