Hôm nay,  

Vấn Đề Kỳ Thị Đen Trắng

28/10/201400:00:00(Xem: 7694)

...Năm 1950: 18% gia đình đen có một bà mẹ mà không có ông bố; 2012, con số đó tăng lên 70%...

Vụ xung đột trắng đen tại Ferguson cho đến nay vẫn chưa yên, mà lại có nguy cơ nổ lớn nếu toà án tha bổng anh cảnh sát trắng. Cho đến nay, tin hành lang toà án cho biết có nhiều yếu tố hậu thuẫn chuyện anh cảnh sát chỉ có phản ứng tự vệ, chẳng hạn vết máu trong xe cảnh sát đã được chứng nghiệm là máu của anh đen, xác nhận anh này đã đánh cảnh sát còn đang ngồi trong xe, đến trầy cả tay chính mình đúng như anh cảnh sát đã khai, văng máu ra trong xe. Và theo vết đạn bắn vào tay, thì anh này cũng không phải bị bắn khi đang dơ tay đầu hàng như nhiều “nhân chứng” da đen đã xác nhận. Do đó sẽ có nhiều hy vọng thoát nạn. Nhân vụ này, cũng nên xét qua vấn đề xung đột màu da trong xã hội Mỹ ngày nay.

Nếu nói về quan hệ màu da tại nước Mỹ này, năm 2008 sẽ đi vào lịch sử Mỹ như một bước ngoặt quan trọng ngang ngày TT Lincoln chấp nhận nội chiến để chấm dứt chế độ nô lệ da đen. Năm 2008 đó là năm một người da đen, dù là lai, được 52% dân Mỹ bầu làm tổng thống, lãnh đạo tối cao của Hiệp Chủng Quốc.

Cuộc bầu cử này cũng sẽ đi vào lịch sử như một trong những biến cố được tranh luận nhiều nhất lịch sử Mỹ. Sẽ có cả triệu bài báo, cả ngàn cuốn sách, cả ngàn cuộc tranh luận trên truyền hình, trong các trường đại học, các trung tâm nghiên cứu.

Người ta sẽ bàn đến nguyên nhân của biến cố, một người da đen làm sao có thể ra tranh cử và đắc cử, nhất là trong thời điểm năm đó là năm mà cuộc bầu cử tổng thống coi như chỉ là một thủ tục hành chánh để tấn phong bà cựu Đệ Nhất Phu Nhân lên tiếp nối công trình bị gián đoạn của ông chồng.

Người ta cũng sẽ nhìn lại để bàn đến hậu quả của biến cố, bầu một người da đen làm tổng thống thì nước Mỹ đi về đâu? Có thật là nước Mỹ đã bước qua kỷ nguyên hậu kỳ thị không? Có thật là hoàn cảnh, cuộc sống của dân da đen nói riêng và da màu thiểu số nói chung đã khá hơn như kỳ vọng không?

Trước hết nói về cuộc bầu cử.

Thời điểm 2008 đó, chính đảng Mỹ chỉ có hai đảng. Đảng Cộng Hoà đụng đâu bắn đó mà lại bắn trật, đổ bể tùm lum, khiến dân Mỹ quá ngán, muốn thay đổi. Đảng Dân Chủ coi như đương nhiên sẽ lên nắm quyền. Mà trong đảng đó thì bà cựu Đệ Nhất Phu Nhân và ông chồng cựu tổng thống kiểm soát trọn vẹn toàn thể bộ máy tranh cử. Đa số cử tri Mỹ cũng nhớ lại thời “an cư lạc nghiệp” dưới thời TT Clinton, tổng thống dù lăng nhăng chuyện gái gú nhưng nhiều người nghĩ lại, thấy những chuyện đó đáng cười hơn đáng lo.

Thế nhưng lịch sử trớ trêu lại đưa một ông Obama vào Toà Bạch Ốc.

Khỏi dông dài mất thời giờ, ai cũng biết ông cựu tổ chức cộng đồng này là một con số không khổng lồ. Cả cuộc đời, thành quả chẳng có gì xuất sắc, nhưng lên rất nhanh, đụng đâu thành công đó, phần lớn nhờ chính sách nâng đỡ dân thiểu số da đen, gọi là affirmative action. Chưa ai giải thích rõ ràng sao anh học sinh tầm thường Obama đã có thể được nhận vào những đại học hàng đầu khó khăn nhất như Columbia và Harvard. Tốt nghiệp cũng không ai biết điểm ra trường là bao nhiêu, dựa trên luận án nào vì đó là những “bí mật quốc gia” chưa được phổ biến. Người ta kể thành tích chủ tịch –President- tập san luật của Harvard, nhưng thực tế đây là vai trò gom góp bài, đóng tập, in, và phát hành, không hơn không kém. Ông “chủ tịch” Obama không viết một bài nào cũng không có quyền kiểm duyệt bất cứ bài nào của các đại giáo sư luật viết cho tập san đó.

Ra trường, không làm luật sư trong các văn phòng luật lớn nào cho xứng danh Harvard, mà đi làm phụ giảng luật Hiến Pháp tại Đại Học Chicago, và tổ chức cộng đồng, tức là có trách nhiệm lo chuyện điện nước, đèn đường, sửa đường cho một khu phố, xin trợ cấp, giúp người già, trẻ em,...

Ông nhẩy vào chính trị, đi từ may mắn này đến số đỏ khác. Khi tranh cử nghị sĩ tiểu bang Illinois, thì may mắn gặp đối thủ bị dính xì-căng-đan rút lui giờ chót nên đắc cử. Làm 6 năm mà không có một luật, hay một biểu quyết để đời nào ngoại trừ cả trăm lần bỏ phiếu “hiện diện”, tức là phiếu không có ý kiến. Ra tranh cử dân biểu liên bang bị rớt đài. Sau đó ra tranh cử thượng nghị sĩ liên bang, lại gặp một ông đối thủ phải rút lui giờ chót, nên lại đắc cử. Nhiệm kỳ thượng nghị sĩ liên bang là 6 năm, ông làm được 2 năm, qua năm thứ ba là bắt đầu tranh cử tổng thống ngay.

Năm 2007 bắt đầu tranh cử, khối dân da đen thì dĩ nhiên nhắm mắt tung hô vô điều kiện, nhưng họ cũng chỉ có hơn 10% dân Mỹ. Đa số dân da nâu gốc Nam Mỹ cũng nhất loạt hậu thuẫn vì tin vào những lời hứa ân xá trong ngay năm đầu, nhưng cũng chỉ xấp xỉ 15% cử tri.

Sự thắng cử của TNS Obama phần lớn là do khối dân da trắng sinh viên và trung niên, đặc biệt là khối trí thức đại học cấp tiến, và khối truyền thông. Đối với những khối này, họ nhìn rõ TNS Obama là tờ giấy trắng, một người chưa có một chút kinh nghiệm, hiểu biết gì những chính sách kinh tế, xã hội, ngoại giao, giáo dục, quân sự,... trong tầm mức quốc gia. Nhưng họ lại nghĩ bỏ phiếu cho ông này mang một ý nghiã khác, một hệ quả khác, quan trọng hơn.

Nhìn vào quá khứ, họ thấy dân da đen đã bị đối xử quá tàn nhẫn, nước Mỹ có cái nợ thật lớn đối với khối dân da đen mà đây là cơ hội ngàn năm để trả.

Nhìn vào hiện tại, họ vẫn thấy tình trạng kinh tế xã hội của dân da đen vẫn còn chưa khá. May ra với một tổng thống da đen, ông sẽ lo cho họ tích cực hơn và dân da đen sẽ có cơ hội khá hơn, về kinh tế cũng như về dân quyền.

Nhìn vào tương lai, họ thấy kỳ thị màu da vẫn là một vấn nạn phải giải quyết, và họ đã nhìn thấy ở ứng viên Obama một liều thuốc tiên sẽ chữa được bệnh này cho nước Mỹ.

Chỉ có một người da đen lãnh đạo nước Mỹ mới có thể có những chính sách tích cực giúp đỡ cho dân da đen, đặt nền móng cho việc hàn gắn trắng đen một cách hiệu quả và trường kỳ.

Chiến lược tranh cử của TNS Obama rất tinh xảo. Trong suốt hai năm tranh cử, ông không khi nào tự xưng là da đen ra tranh đấu cho quyền lợi người da đen, không hề hứa sẽ biệt đãi dân da đen. Ông chủ trương đại đoàn kết, không có trắng cũng không có đen, chỉ có dân Mỹ thôi.

Quan điểm ôn hoà và hợp lý hợp tình đó đã được đa số dân da trắng chấp nhận vì cảm thấy yên tâm. Đưa TNS bạch diện thư sinh Barack Obama vào Tòa Bạch Ốc.

Ở đây, ta nhìn thấy rõ việc bầu TNS Obama làm tổng thống độc đáo ở điểm không ai nhìn vào khả năng, hay kinh nghiệm gì của ứng viên, cũng chẳng ai hiểu rõ quan điểm chính trị, sách lược kinh bang tế thế, mà phần lớn chỉ nhắm vào... hy vọng chuộc lỗi với dân da đen, hy vọng nâng cao mức sống dân da đen, hy vọng hàn gắn trắng đen. Và TNS Obama, một người thông minh xuất chúng, đã nhìn rõ hơn ai hết cái hy vọng đó, nên mới lấy hy vọng làm khẩu hiệu tranh cử. Thực tế là ngoài chuyện hy vọng ra thì chẳng ai thấy có bất cứ lý do nào để dân Mỹ bầu cho TNS Obama.

Nhờ cái hy vọng đó, TNS Obama đã đắc cử. Nhưng rồi hy vọng đó có thành sự thật không? Câu trả lời ngắn gọn nhất là “Không!”. Số phận dân da đen không khá hơn, xung khắc trắng đen vẫn tệ hại như nửa thế kỷ trước.

Sáu năm sau khi TT Obama đắc cử, hố ngăn cách trắng đen trên phương diện kinh tế lớn hơn bao giờ hết, bất chấp chuyện ông đã vung cả trăm tỷ ra giúp đỡ dân da đen qua đủ loại chương trình trợ cấp. Đây là vài con số của năm 2014:

- Tỷ lệ thất nghiệp trắng: 5,3%, đen: 11,4%. Đây là số thống kê chính thức, sự thật cao hơn nhiều, khoảng 17%-18%, nhất là trong giới thanh niên da đen thì lên đến 20%-25%.

- Tỷ lệ dưới lằn ranh nghèo trong dân da trắng: 9,7%, trong dân da đen: 27,2%.


- Tài sản trung bình của một gia đình trắng: $ 91.406, một gia đình đen: $ 6.446.

Xung khắc trắng đen được phản ánh rõ nét hơn hết qua vụ cảnh sát bắn chết một thanh niên da đen đưa đến nổi loạn cướp phá rồi cảnh sát đàn áp tại Ferguson mới đây. Ở đây ta nên ghi nhớ là lần cuối cùng dân da đen nổi loạn là tại Los Angeles năm 1992, hơn 20 năm trước, khi anh da đen Rodney King bị cảnh sát hành hung giữa đường phố. Sau hơn hai thập niên ổn định, xung khắc lại nổi lên, và miả mai thay, lại nổi lên dưới trào một ông tổng thống da đen. Ngay cả 8 năm dưới thời TT Bush cũng không có cảnh dân da đen nổi loạn.

Một lý do xung khắc không giảm mà lại tạo ra nổi loạn lại là chính TT Obama ngay sau khi nhậm chức đã để lộ rõ thái độ có phần kỳ thị ngược khi ông mau mắn phản ứng trong một vài vụ xung đột trắng đen. Một ông giáo sư đen bị cảnh sát bắt vì cậy cửa vào nhà mình mà không chịu đưa giấy tờ chứng minh mình là chủ nhà đó. Chưa biết đầu đuôi câu chuyện, vừa nghe tin, TT Obama đã phán ngay “cảnh sát ngu xuẩn”. Một anh đen bị một anh an ninh khu vực bắn chết, chưa biết chuyện gì, TT Obama cũng lên tiếng ngay “nếu tôi có con trai, tôi cũng muốn nó như Trayvon”, là anh đen bị bắn chết. Những phản ứng thiên vị không hàn gắn được gì mà chỉ chứng tỏ TT Obama đứng về một phiá.

Cái lý do đầu tiên tại sao hy vọng hàn gắn trắng đen không thành không có gì bí hiểm cả. Chỉ có những người ngây thơ nhất mới có thể tin những lời hứa viễn vông của ứng viên Obama. Mâu thuẫn trắng đen là vấn đề có căn gốc sâu đậm về kinh tế, xã hội, văn hoá, chủng tộc, từ nhiều thế hệ, một người chẳng thể thay đổi được gì trong một vài năm, nhất là khi người đó lại chẳng có khả năng, tài cáng vĩ đại gì ngoài tài đọc diễn văn do cả chục chuyên viên đã thảo trước. Một Martin Luther King, hay một Nelson Mandela, với kinh nghiệm cả đời người, hơn nửa thế kỷ đấu tranh sống chết, ra tù vào ngục, nếm đủ kiểu thử thách về mọi khiá cạnh, may ra mới làm nên chuyện gì. Chứ một anh lo việc tổ chức cộng đồng hai ba năm trong một khu phố, thì làm sao có hy vọng? Nhất là khi chính người đó lại cũng có thái độ thiên vị kỳ thị rõ rệt.

Người ta có thể đặt câu hỏi tại sao TT Obama tung tiền trợ cấp ào ào như vậy mà tình trạng dân đa đen vẫn không khá hơn, trái lại, ngày càng tệ?

Một nghiên cứu đăng trên báo điện tử Townhall cho thấy vài thống kê rất đáng suy nghĩ:

- Thập niên 50, chưa tới 25% dân da đen sống nhờ trợ cấp của Nhà Nước; ngày nay hơn 70% sống bằng trợ cấp đủ loại, từ phiếu thực phẩm đến bảo hiểm y tế, tiền thất nghiệp, trợ cấp đông con,...

- Năm 1950: 18% gia đình đen có một bà mẹ mà không có ông bố; 2012, con số đó tăng lên 70%, hay 80% tại các thành phố đen lớn như Detroit.

Hãy thử tưởng tượng trong 10 đứa trẻ ta thấy ngoài đường phố trong khu da đen thì đã có tới 7-8 đứa không có bố. Một con số kinh hoàng khó tin, nhưng lại là sự thật theo thống kê chính thức. Nói cách khác, nền tảng gia đình da đen đã không còn nữa. Tình trạng một bà mẹ vừa đi làm, vừa thay kép như thay áo, vừa đầu tắp mặt tối đánh lộn với một đàn con nheo nhóc không có bố, dĩ nhiên đưa đến những thảm trạng xã hội như thất học, thất nghiệp, nghiện ngập, băng đảng, trộm cướp, giết người, …

Trung bình mỗi năm có hơn 7.000 người da đen bị giết. 94% là do chính người da đen khác giết. Dân da đen chỉ là 12% dân số Mỹ, nhưng 50% số người bị giết hàng năm là da đen, gần 40% dân số trong các nhà tù là da đen.

Trên phương diện giáo dục, trung bình một học sinh da đen lớp 12 (cuối trung học) chỉ hiểu biết về toán và văn chương ngang với một học sinh trắng lớp 6 (mới vào trung học).

Những con số thống kê chính thức này cho thấy tình trạng dân da đen chẳng những không khá hơn mà ngày càng tệ. Nhiều chuyên gia xã hội học đã phân tích vấn đề và nhận thấy sự “xuống dốc” của khối dân này liên hệ trực tiếp đến các cải cách của TT Johnson. Những trợ cấp đủ loại bắt đầu được tung ra dưới chủ trương Great Society (đại xã) và Fight Against Poverty (chống nghèo) của TT Johnson trong ngắn hạn đã giúp dân da đen một cách hết sức cụ thể. Nhưng trong đường dài, đã là một đại hoạ, đưa đến cảnh lạm dụng, lợi dụng và ỷ lại vào trợ cấp. Tinh thần trách nhiệm cá nhân suy đồi khi ai cũng ngồi chờ Nhà Nước giúp đỡ. Nền tảng gia đình biến mất khi 80% trẻ con là con hoang được Nhà Nước nuôi. Mất nền tảng gia đình thì xã hội điên đảo, không cần phải là nhà phân tâm học hay triết gia gì cũng thấy.

Chỉ có 10% dân Mỹ cho rằng TT Obama đã đạt được ít nhiều thành quả cải tiến cuộc sống của dân da đen, cũng như cải tiến được quan hệ trắng đen tại Mỹ. 35% cho là quan hệ đó đã tệ hại hơn.

Công bằng mà nói, kỳ thị da màu là một vấn nạn quá lớn và quá xâu đậm, một người cho dù là tổng thống cũng không thể giải quyết toàn bộ vấn đề được.

Đây là những vấn đề mà hy vọng viễn vông không thể giải quyết được, trong khi tăng trợ cấp theo mô thức Johnson-Obama chỉ trầm trọng hóa vấn đề. Nhưng tăng trợ cấp luôn luôn là giải pháp của đảng Dân Chủ. Đối với khối dân đa đen, đảng Dân Chủ là đảng của trợ cấp. Thay vì “giải phóng” dân da đen, mang lại bình quyền cho họ, giúp họ thăng tiến về kinh tế, giáo dục, xã hội, thì đảng DC đã biến họ thành một thứ nô lệ mới, nô lệ của trợ cấp Nhà Nước, để có thể lấy phiếu của họ. Chính TT Johnson đã khoe “tôi đã khoá chặt khối cử tri da đen vào đảng Dân Chủ một cách vĩnh viễn”.

Đảng Cộng Hoà có đưa ứng viên da đen nào ra thì cũng không một chút hy vọng lấy phiếu của dân da đen. Đó là thực tế chính trị Mỹ. Ông bác sĩ da đen Ben Carson, có ồn ào hay được hậu thuẫn như thế nào trong giới bảo thủ da trắng Mỹ, cũng không bao giờ có hy vọng thu được phiếu của dân da đen.

Những khủng hoảng liên tục từ gần một năm nay khi Obamacare được “tưng bừng khai trương” trong rối loạn, tới “mùa hè đỏ lửa” tại Iraq đã đặt lại toàn bộ vấn đề bầu TNS Obama làm tổng thống. Chỉ vì những ảo tưởng, những hy vọng hão huyền mà dân Mỹ đã bầu một người mà càng ngày càng thấy rõ đã với tay quá cao, không gánh vác nổi trọng trách lãnh đạo một đại cường lớn mạnh nhất thế giới, đối phó với những vấn đề gai góc nhất.

Không ai phủ nhận con người của TT Obama có nhiều điểm hơn thiên hạ, hơn cả nhiều tổng thống tiền nhiệm trước. Có thể nói thông minh với tài ăn nói hơn tất cả các tổng thống trong lịch sử hiện đại của Mỹ từ TT Kennedy tới nay, có tư cách hơn Clinton, thận trọng hơn Bush 43, giỏi hơn Carter, lương thiện hơn Nixon. Nhưng những đức tính đó vẫn không thể bù đắp được việc thiếu kinh nghiệm kinh bang tế thế.

Việc ông được bầu làm tổng thống dù sao cũng chứng minh nước Mỹ đã đi một bước rất xa trong việc bình quyền hoá dân da màu, và chứng minh càng rõ hơn hết nước Mỹ là đất của cơ hội. Chỉ có nước Mỹ mới có chuyện một người thiểu số da màu được tôn lên làm tổng thống. Các nước Âu Châu như Anh, Pháp, Đức, Ý,... đầy rẫy dân thiểu số da đen, da nâu, để xem chừng nào họ có lãnh tụ da màu.

Đi xa hơn nữa, kỳ thị màu da cũng không phải là vấn đề duy nhất trong lịch làm việc của tổng thống một đại cường như Mỹ. Đáng tiếc là vì quá chú tâm vào một yếu tố màu da, mà dân Mỹ đã lơ là tất cả mọi vấn đề, mọi khả năng khác. Cuối cùng thì chuyện kỳ thị không giải quyết được, lại biến tất cả mọi chuyện khác thành khủng hoảng với những hậu quả đường dài tai hại gấp bội. (26-10-14)

Vũ Linh

Quý độc giả có thể liên lạc với tác giả để góp ý qua email: [email protected]. Bài của tác giả được đăng trên Việt Báo mỗi thứ Ba.

Ý kiến bạn đọc
28/10/201416:23:31
Khách
còn 1 khối dân nữa o thua kém dân da đen là latino ! cũng là nguyên nhân người da trắng causcasian đòi chia cảlifonia ra làm 6 phần hòng tránh sụp đổ !
hy vọng có bài viết về nhóm này !
28/10/201416:16:03
Khách
bài viết rất hay ,làm người đọc cuốn hút đặc biệt đề tài sát với thực tế đời sống người mỹ hiện tại mà nhiều người quan tâm
hy vọng có thêm nhiều bài bình luận nữa nha !!!!!!!
thánk you !
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.