Hôm nay,  

Việt Nam Đã Mất Chủ Quyền Biển Vào Tay Trung Cộng

31/10/201400:00:00(Xem: 7648)

blank
Phạm Trần

Lãnh đạo Cộng sản Việt Nam đã bằng lòng đổi chủ quyền Biển Đông để được sống yên ổn bên cạnh nước láng giềng Trung Quốc sau kỳ họp lần thứ 7 của Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam - Trung Quốc diễn ra tại Hà Nội ngày 27/10/2014.

Kết qủa này thật ra đã được đồng ý trên nguyên tắc giữa hai Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng của Việt Nam và Lý Khắc Cường của Trung Quốc tại cuộc họp tại Milan, Italy ngày 16/10/2014, bên lề Hội nghị cấp cao ASEM-10 (The Asia–Europe Meeting,ASEM).

Tuy nhiên, thỏa hiệp mới đã được chi tiết hóa rõ hơn tại phiên họp chung tại Hà Nội giữa 2 phái đòan của Quốc vụ viện Trung Cộng Dương Khiết Trì và phía Việt Nam do Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngọai giao Phạm Bình Minh dẫn đầu.

Vì vậy, không ai ngạc nhiên khi thấy phía Việt Nam đã tự ý phổ biến nhiều bức hình tươi cười, chứa đựng sự thỏa mãn của ông Dương Khiết Trì chụp chung với các ông Phạm Bình Minh, Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.

Những hình ảnh của ngày 27/10 đã khác một trời một vực với những tấm hình chứa nhiều nỗi bất bình, cố nén trong căm tức của Lãnh đạo Việt Nam với ông Dương Khiết Trì khi ông này sang Hà Nội ngày 18/06/2014 để nói như ra lệnh cho phía Việt Nam phải chấm dứt ngay lập tức các hoạt động phá rối hoạt động tìm kiếm dầu của gìan khoan Hải Dương 981, do Bắc Kinh tự đặt sâu trong vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam từ ngày 02/05/2014 đến ngày 17/07/2014.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đi thăm Ấn Độ cùng ngày họ Dương họp ở Hà Nội (27/10/2014) khiến Nhân Dân nhật báo của Trung Cộng bực mình, ngụ ý nói ông Dũng muốn mở rộng hợp tác kinh tế với Tân Đề Ly (New Delhi) để giảm lệ thuộc vào Bắc Kinh. Báo này đăng bài bình luận của Tô Hiểu Huy, Phó Chủ nhiệm Sở Nghiên cứu Chiến lược quôc tế thuộc Viện Nghiên cứu các vấn đề quốc tế còn lên án việc phái đòan Nguyễn Tấn Dũng ký thỏa hiệp khai thác dầu khí chung ở Biển Đông với Ấn Độ là vi phạm “chủ quyền của Trung Quốc ở Nam Hải”.

Nhưng đâu là sự thật ?

Sự thật là ông Nguyễn Tấn Dũng đã “bắt cá hai tay” để chứng tỏ Việt Nam giữ vững đường lối ngọai giao độc lập, không chịu ảnh hưởng của Bắc Kinh để có lợi, nhưng mặt khác thì ông Dũng cũng đã để lộ ra “lá bài hai mặt” của Việt Nam trong cuộc chiến tranh chấp chủ quyền trên biển với Trung Cộng ở thế yếu, vì Việt Nam đã chịu làm theo “ý muốn của Trung Quốc”.

Tiêu biểu là trong cả 2 cuộc họp ở Hà Nội và ở Milan (Italy), phía Việt Nam đã không đề cập đến, hoặc có nói thì cũng chỉ trong tư thế “nói nhỏ cho nhau nghe”, những vụ tầu cá Việt Nam liên tục bị tầu Trung Cộng tấn công hoặc đâm chìm ở vùng biển Hòang Sa mà báo chí Việt Nam, ngay cả Ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Thiện Nhân, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng chỉ được phép gọi là “tầu lạ” hay “tầu nước ngòai” !

Việc Trung Cộng không ngừng củng cố, xây dựng trên quần đảo Hòang Sa chiếm của Việt Nam năm 1974 và biến các đảo Gạc Ma và 7 bãi đá khác chiếm của Việt Nam ở Trường Sa năm 1988 thành các đảo nhân tạo, xây sân bay, bãi tầu, căn cứ quân sự phòng thủ cũng không thấy ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói trong cuộc họp với Lý Khắc Cưởng.

Thái độ nhu nhược này cũng diễn ra trong các cuộc họp giữa các ông Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang và Phạm Bình Minh với Ủy viên Quốc vụ viện Dương Khiết Trì tại Hà Nội ngày 27/10 (2014). Những vi phạm trắng trợn chủ quyền biển đảo Việt Nam và hành động vô nhân đạo, bất chấp sinh mạng của ngư dân Việt Nam và luật pháp quốc tế của phiá Trung Cộng cũng đã không được báo chí của đảng CSVN và Bộ Ngọai giao nói đến trong dịp này.

Nếu cứ tin vào ngôn ngữ của nhà nước và báo chí Việt Nam thì không có chuyện gì xẩy ra giữa Việt Nam và Trung Cộng trước và trong thời gian ông Dương Khiết Trì có mặt ở Hà Nội.

Như vậy, thiệt thòi cuối cùng đã thuộc về nhân dân Việt Nam, chủ nhân của đất nước nhưng quyền này đã bị đảng cướp mất từ lâu nên cứ è cổ ra mà gánh chịu hậu qủa bởi những quyết định sai lầm trong quan hệ ngọai giao với Trung Cộng.

LỜI HỨA CỦA NGUYỄN TẤN DŨNG

Trước hết hãy nói về chuyện ở Milan, Ý Đại Lợi, ngày 16/10 (2014) ông Dũng đã nhân danh Chính phủ cam kết với Lý Khắc Cường những điều sau đây,theo Bộ Ngọai giao Việt Nam:

1) Ông: “Khẳng định Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam quý trọng giữ gìn và mong muốn củng cố quan hệ láng giềng hữu nghị truyền thống và tăng cường hợp tác toàn diện giữa hai nước phát triển lành mạnh, ổn định.”

2) Ông: “ Đề nghị hai bên duy trì gặp gỡ và tiếp xúc cấp cao để tăng cường tin cậy, thúc đẩy hợp tác cùng có lợi trên các lĩnh vực, đồng thời kịp thời chỉ đạo giải quyết thỏa đáng các vấn đề nảy sinh trong quan hệ hai nước.”

Ông cũng đã đồng ý: “ Hai bên nhất trí triển khai thực chất 03 nhóm công tác hợp tác về xây dựng cơ sở hạ tầng, hợp tác về tiền tệ và bàn bạc hợp tác cùng phát triển trên biển trong khuôn khổ đoàn đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ hai nước.”

“Về vấn đề Biển Đông”, Bản tin Bộ Ngọai giao nói tiếp, “Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh đề nghị hai bên kiểm soát tốt tình hình trên biển, không có hành động làm phức tạp thêm tình hình, thúc đẩy các cơ chế đàm phán tiến triển, nghiêm túc thực hiện Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc; tôn trọng Luật pháp quốc tế, cùng nhau duy trì hòa bình, ổn định của khu vực và thế giới.”

Về phiá ông Lý Khắc Cường, Bộ Ngọai giao cho biết ông ta đã: “ Khẳng định Đảng, Chính phủ Trung Quốc luôn kiên trì phương châm láng giềng hữu nghị, hợp tác cùng có lợi với Việt Nam, luôn mong muốn xử lý thỏa đáng các vấn đề khó khăn phát sinh trong quan hệ hai nước, cùng thúc đẩy quan hệ hai Đảng, hai nước phát triển lành mạnh, ổn định.”

Sau cùng, Bộ Ngọai giao Việt Nam nói ông Lý Khắc Cường “đã phản hồi tích cực đối với những đề xuất của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về các biện pháp cụ thể nhằm tăng cường quan hệ hai Đảng, hai nước thời gian tới.”

Tất nhiên là phải “phản hồi tích cực” vì những gì ông Nguyễn Tấn Dũng nói ra từ miệng mình, trong tư cách một Thủ tướng Việt Nam, đã đáp lại đúng lập trường bất di bất dịch của Trung Cộng gọi là “ quyền lợi cốt lõi” của Trung Quốc ở Nam Hải (Biển Đông) qua tuyên bố “Biển của ta, gác tranh chấp cùng khai thác”.

Chủ trương coi lãnh thổ của người khác cũng là của mình đã được Lãnh tụ Đặng Tiểu Bình đưa ra năm 1979 và được các thế hệ lãnh đạo thừa kế của Trung Cộng tuyệt đối tuân thủ và thi hành qua chiều bài “tự vẽ” ra hình Lưỡi Bò, hay “đường 9 đọan” rồi chuyển sang “10 đọan” chiếm ¾ diện tích 3.5 triệu cây số vuông Biển Đông.

HAI ÔNG TRỌNG-SANG

Vì vậy mà ta không lạ khi thấy trong ngôn ngữ cuối cùng sau một ngày họp giữa Dương Khiến Trì và Phạm Bình Minh, phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang không gay gắt như khi hai ông Trọng tiếp họ Dương ngày 18 tháng 6 năm nay (2014).

Hồi đó, ông Trọng đã “khẳng định lập trường về chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và trên biển Đông là không thay đổi và không thể thay đổi.” (Thông tấn xã Việt Nam,TTXVN).

Theo tin Chính phủ Việt Nam thì trong cuộc gặp Dương Khiết Trì ngày 27/10/2014, hai ông Trọng và Sang đã:” Khẳng định chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn coi trọng quan hệ hữu nghị, hợp tác với Trung Quốc; nhấn mạnh việc giữ gìn, củng cố và làm cho mối quan hệ Việt Nam-Trung Quốc phát triển lành mạnh là trách nhiệm chung của cả hai bên, phù hợp với lợi ích căn bản, lâu dài của nhân dân hai nước và cũng có lợi cho cục diện hòa bình, ổn định của khu vực và thế giới.”

Hai Lãnh đạo Việt Nam cũng: “Đề nghị Ủy ban Chỉ đạo Hợp tác song phương cần tiếp tục phát huy tốt hơn vai trò định hướng, góp phần thiết thực thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước, đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc phát triển ổn định, lành mạnh.”

Ông Sang không gặp Dương Khiết Trì ngày 18/06/2014, nhưng trong lần gặp hôm 27/10 (2014) vừa qua, Chủ tịch nhà nước CSVN nói: “Vấn đề trên biển hết sức hệ trọng đối với mỗi nước cũng như quan hệ hai nước. Đây không chỉ là vấn đề giữa hai Đảng, hai nước mà còn là vấn đề giữa nhân dân hai nước. Nếu hai Đảng, hai nước không kiểm soát được bất đồng trên biển thì quan hệ hai Đảng, hai nước không những bị ảnh hưởng mà tình cảm của nhân dân hai nước cũng bị tổn thương.”

Tại buổi tiếp này, ông Dương Khiết Trì “khẳng định Đảng, Chính phủ Trung Quốc hết sức coi trọng và luôn mong muốn tăng cường trao đổi cấp cao, củng cố hữu nghị nhân dân, xây dựng môi trường thuận lợi để phát triển quan hệ tốt đẹp, ổn định lâu dài với Việt Nam, đồng thời sẵn sàng cùng với Việt Nam đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hợp tác trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội, giao lưu nhân dân…”

Ông Dương Khiết Trì nhấn mạnh: “ Việc xử lý thỏa đáng bất đồng là phù hợp với lợi ích căn bản của nhân dân hai nước, có ý nghĩa tích cực đối với ổn định và phát triển của khu vực.”

SỰ THẬT ĐÃ PHƠI RA

Qua những câu chữ đấy tình “vừa là đồng chí vừa là anh em” ngọt sớt này, tuy vắng bóng 16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt (“láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt.)

nhưng bên trong vẫn thấy bóng dáng của “những nỗi xót xa” hiện ra nguyên hình trong thỏa thuận Phạm Bình Minh-Dương Khiết Trì sau đây:

1) “Hai bên cho rằng, xử lý thỏa đáng vấn đề trên biển có ý nghĩa quan trọng đối với quan hệ hai nước.”

2) “Hai bên thực hiện nghiêm chỉnh nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, căn cứ “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc” thúc đẩy các cơ chế đàm phán về vấn đề trên biển. Dựa trên nguyên tắc dễ trước khó sau, tuần tự tiệm tiến, sớm triển khai công việc khảo sát chung, tạo cơ sở cho việc thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ đi đôi với hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này như Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường đã nhất trí với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại cuộc gặp tại Mi-lan, I-ta-li-a ngày 16/10/2014.

Ở đọan này, cả hai bên Việt Nam và Trung Cộng đều không giải thích hay làm cho rõ “khảo sát chung” những cái gì, khóang sản, dầu khí, hay cả các tài nguyên, ngư trường khác nữa ?

Và tại sao Việt Nam lại đồng ý “khảo sát chung” với Trung Cộng khi Bắc Kinh không có chủ quyền ở vùng Biển Đông ?

Ngòai ra, nguy hiểm hơn, Việt Nam còn đồng ý “đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ đi đôi với hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này”?

Như vậy là rõ ràng thỏa hiệp Phạm Bình Minh-Dương Khiết Trì ngày 27/10/2014 đã vượt ra khỏi thỏa hiệp giữa Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Chủ tịch Nhà nước Trung Quốc Tập Cận Bình ngày 20/06/2013 tại Bắc Kinh.

Hồi đó một “thỏa hiệp mới được phía Việt Nam gọi là “gia hạn” và “sửa đổi” lần thứ 4 hợp tác giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Tổng Công ty dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc (China National Offshore Oil Corporation, CNOOC), thì diện tích tìm kiếm chung sẽ mở rộng từ 1541 cây số vuông lên thành 4076 cây số vuông. Và hiệu lực của Thỏa thuận Thăm dò Chung có hiệu lực đến hết năm 2016.”

Ông Đỗ Văn Hậu-Tổng Giám đốc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) đã giải thích về nguồn gốc của thỏa thuận giữa hai nước như thế này: “Theo Quy định tại Điều 7 của Hiệp định Việt Nam-Trung Quốc về Phân định Lãnh hải, Vùng Đặc quyền Kinh tế và Thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ (ký ngày 25/12/2000 và có hiệu lực từ ngày 20/6/2004), nếu có các mỏ dầu khí vắt ngang qua Đường Phân định, hai nước sẽ cùng nhau hợp tác khai thác chung.

Từ năm 2005, Tổng Công ty Dầu khí Quốc gia Việt Nam, nay là Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) và Tổng Công ty Dầu khí Ngoài khơi Quốc gia Trung Quốc (CNOOC) đã ký kết và thực hiện Thỏa thuận Khung về hợp tác dầu khí trong Khu vực Thỏa thuận Ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ. Trên cơ sở kết quả thực hiện Thỏa thuận Khung, Thỏa thuận Thăm dò chung Việt Nam-Trung Quốc trong Khu vực xác định Ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ được ký kết giữa Petrovietnam và CNOOC ngày 6/11/2006 và có hiệu lực từ ngày 2/1/2007, sau khi được Chính phủ hai nước phê chuẩn.”

Hiệp định về Vịnh Bắc Bộ năm 2000, cũng như “Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa” do Tổng bí thư đảng Lê Khả Phiêu ký với Trung Cộng ngày 30/12/1999 đã không được đem ra thảo luận tại Quốc hội trước khi ông Phiêu đặt bút ký nên tòan dân, cho đến bây giờ (2013), vẫn chưa được biết tường tận về những điểm lợi và hại của hai văn kiện quan trọng này.

Quốc hội của Nhà nước Cộng sản Việt Nam cũng đã nhắm mắt phê chuẩn Hiệp định này vào năm 2004 mà không có bất cứ cuộc điều tra hay nghe điều trần của Chính phủ nên cũng mập mờ như dân !

Do đó, sau khi có loan báo từ Bắc Kinh nói rằng hai phiá Việt-Trung đã thỏa thuận “gia hạn” và “sửa đổi” hợp tác giữa hai tập đòan dầu khí của hai nước trên Vịnh Bắc Bộ thì mọi người mới biết rằng Việt Nam đã chịu để cho Trung Cộng được quyền cùng khai thác dầu khí bên trong phần biển thuộc về Việt Nam, dù khu vực khai thác chung nằm trên đường ranh giới phân định giữa hai nước!

ông Đỗ Văn Hậu giải thích tiếp rằng: “Thỏa thuận hợp tác giữa PVN và CNOOC được ký lần đầu từ năm 2006 phù hợp với Hiệp định đã ký kết giữa hai nước về phân định Vịnh Bắc Bộ. Thỏa thuận này đã được gia hạn 3 lần và lần này là lần thứ 4 với thời hạn đến năm 2016.

Theo đó, Việt Nam và Trung Quốc đã thỏa thuận với nhau về một vùng biển nằm trên Vịnh Bắc Bộ, nằm trên đường phân định hai quốc gia; cùng thăm dò và cùng khai thác khi phát hiện có dầu khí. Ngoài việc gia hạn, thỏa thuận lần thứ 4 này đã thống nhất mở rộng khu vực thăm dò chung nằm trên đường phân định hai quốc gia trên Vịnh Bắc Bộ lên gần 3 lần so với lần đầu năm 2006.

Khu vực này được chia đều qua đường phân định trên Vịnh Bắc Bộ, một nửa nằm phía Việt Nam và một nửa nằm bên phía Trung Quốc. Trên khu vực này, hai Tổng công ty của hai Nhà nước sẽ cùng nhau tiến hành thăm dò, nhằm phát hiện các cấu tạo địa chất có chứa dầu khí. Khi phát hiện có dầu khí thì 2 bên sẽ tiếp tục bàn thảo, để cùng nhau hợp tác khai thác.” (Thống tấn xã Việt Nam, TTXVN, 20-6-2013)

Giờ đây, Việt Nam và Trung Cộng lại đồng ý “thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ đi đôi với hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này” là vùng biển nào, nếu không là vùng còn lại của Biển Đông vẫn thuộc chủ quyền của Việt Nam thì của ai ?

Không có bất cứ bản tin nào của phía Việt Nam hay của Trung Quốc gỉải thích rõ về điểm quan trọng này, ngòai việc ông Phạm Bình Minh đã: “Khẳng định Việt Nam luôn coi trọng việc phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc; nhấn mạnh hai bên cần triển khai hiệu quả những thỏa thuận đạt được trong chuyến thăm Trung Quốc của đồng chí Lê Hồng Anh, Đặc phái viên của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 8/2014) về việc khôi phục giao lưu hợp tác, kiểm soát tốt những bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp.”

Điều này có nghĩa phía Việt Nam đã đồng ý “giữ nguyện hiện trạng” ở Biển Đông, hay nói cách khác là “quân đâu đứng nguyên ở đó”, có nghĩa công nhận sự có mặt của quân Trung Cộng trên vùng biển Trường Sa và Hòang Sa của Việt Nam.

Bộ trường Quốc phòng Phùng Quang Thanh mới họp từ Bắc Kinh về (từ 16 đến 19/10/2014) đã xác nhận với báo chí ở Hà Nội ngày 20/10 (2014).

Đáp câu hỏi: “Hai bên có bàn về việc phía Trung Quốc đốc thúc nhiều hoạt động xây dựng trên khu vực quần đảo Trường Sa của Việt Nam, cũng như chuyện giàn khoan đã xảy ra ít tháng trước?

Tướng Thanh: “Chúng tôi có trao đổi phải giữ nguyên hiện trạng trên biển Đông và phải thực hiện đầy đủ tinh thần Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông - DOC. Quan điểm chung là các bên không mở rộng tranh chấp, không cắm mốc mới. Khi trao đổi với bạn, nói chung bạn ghi nhận ý kiến của phía Việt Nam.

H:- Phía Trung Quốc có đưa ra cam kết nào về việc giữ nguyên hiện trạng, thưa ông?

Tướng Thanh: “Hai bên đều thống nhất phải thực hiện DOC – nghĩa là không mở rộng, làm phức tạp thêm tranh chấp. Quan trọng là phải thống nhất với nhau giữ cho được môi trường hoà bình, ổn định, hợp tác, tránh dùng vũ lực.”

Bộ Ngọai giao Việt Nam nói thêm: “Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Phạm Bình Minh cũng nêu rõ quan điểm, lập trường của Đảng, Nhà nước ta trong vấn đề Biển Đông, khẳng định Việt Nam luôn ưu tiên thông qua các biện pháp hòa bình để cùng Trung Quốc giải quyết tranh chấp, bất đồng tại Biển Đông trên cơ sở tuân thủ các nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước, Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc, luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC).

Ủy viên Quốc vụ Dương Khiết Trì bày tỏ, Trung-Việt là hai nước láng giềng quan trọng của nhau, Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc hết sức coi trọng và luôn kiên trì phương châm hợp tác hữu nghị với Việt Nam. Với sự nỗ lực chung, hai bên đã khắc phục được những khó khăn gặp phải trong thời gian vừa qua. Hiện quan hệ song phương đang từng bước khôi phục, hai bên cần nắm chắc phương hướng phát triển quan hệ hai nước, xử lý thoả đáng và kiểm soát tốt bất đồng trên biển, tạo môi trường thuận lợi cho hợp tác song phương. Ủy viên Quốc vụ Dương Khiết Trì nhất trí tăng cường chỉ đạo các cơ quan hữu quan Trung Quốc tích cực triển khai các thỏa thuận đã đạt được tại Phiên họp lần này.”

Như vậy xem ra Dương Khiết Trì đã “mát lòng mát dạ” sau khi chỉ mất một ngày họp ở Hà Nội với ông Phạm Bình Minh mà xem ra không tốn bao nhiêu công sức.

Bởi vì: “Hai bên cho rằng, quan hệ hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc phát triển lành mạnh, ổn định là phù hợp với nguyện vọng và lợi ích căn bản của nhân dân hai nước, có lợi cho hoà bình, ổn định và phát triển của khu vực. Hai bên sẽ cùng nhau nỗ lực thực hiện nghiêm túc các thỏa thuận và nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước, không ngừng củng cố và thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc phát triển ngày càng đi vào chiều sâu.

- Hai bên nhất trí tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy giao lưu hợp tác giữa hai nước; đẩy mạnh thực hiện hiệu quả Chương trình hành động triển khai quan hệ đối tác hợp tác chiến lược Việt Nam - Trung Quốc; khẩn trương thành lập Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng và Nhóm công tác về hợp tác tiền tệ để tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực liên quan.

- Hai bên nhất trí thực hiện nghiêm túc 3 văn kiện về biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung Quốc, phối hợp giải quyết kịp thời những vấn đề nảy sinh trong công tác quản lý biên giới.”

Nghe qua thì có vẻ hòa bình, hữu nghị đấy nhưng kẻ bị thiệt trong thỏa thuận Phạm Bình Minh-Dương Khiết Trì ngày 27/10/2014 không phải là đảng CSVN mà thuộc về số phận hẩm hiu của nhân dân Việt Nam, những người đã không những chỉ mất quyền làm chủ đất nước vào tay đảng mà còn bị Lãnh đạo Việt Nam đầy vào chân tường khi không giữ được tài sản của Tổ tiên để lại cho đời sau. -/-

Phạm Trần
(10/014)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.