Hôm nay,  

Chết trên tay người yêu

16/11/201407:07:00(Xem: 6606)

Chết trên tay người yêu

 

 

Nguyễn thị Cỏ May

 

 

Ai cũng phải chết. Luật tự nhiên mà. Nhưng chết êm ái, nhẹ nhàng như đi vào giấc ngủ là điều ai cũng mong muốn. Nhiều người chịu khó trì chí tu hành chỉ mong cuối đời được như vậy.

Ông Jacques Vergès, luật sư ở Tòa án Paris, nổi tiếng là " Luật sư của quỉ " (L'avocat du diable) hay "Luật sư của khủng bố " (L'avocat de la terreur), chẳng những ông chết êm ái tại nhà riêng chỉ sau cái cảm giác thoáng chống mặt, mà còn chết trên tay người yêu cuối đời ở tuổi 88 là một Bà Hầu tước.

Suốt cuộc đời, Ông Jacques Vergès không tu hành một ngày nào. Trong nghề Thầy Cãi, ông tình nguyện bênh vực cho những tội phạm tày trời mà Thần Công lý cũng phải lắc đầu như " Khò-me Đỏ Khiêu Samphang ", nhà độc tài khát máu Saddam Hussein, Khadafi, trùm Mật vụ Đức quốc xã ở Lyon Klaus Barbie, trùm khủng bố Carlos, tội chống nhơn loại Slobodan Milosevic (Serbie)...Vì ông nghĩ là tôi phạm phải cần được bênh vực trước công lý. Công lý là của mọi người. Đó là quyền của mọi người trước khi có phản quyết của Tòa án.

Ông đòi thù lao rất cao ở thân chủ đại gia hoặc cãi miển phí cho những người cần được bênh vực mà không tiền. Ông còn cho tiền túi nữa. Khi lấy  nhiều tiền, ông mời bạn bè tham dự vào hồ sơ ông nhận lảnh và chia lại thù lao. Phần ông thường chẳng còn bao nhiêu.

Ông được nhiều người quí trọng, thương yêu vì bản tánh điệu nghệ nhưng cũng không thiếu người khó chịu vì sự ứng xử nhiều lúc " trái chiều " của ông.

Không biết phải vì vậy mà cuối đời ông được chết vô cùng hạnh phúc?

 

Một thời làm sóng gió

Jacques Vergès sanh ở Thái-lan năm 1924. Cha là người Pháp, Bác sĩ và Lãnh sự Pháp ở Thái-lan. Mẹ là Việt nam, Bà Phạm thị Khang, làm giáo viên. Ông mồ cội mẹ năm 3 tuổi. Người em trai của ông mang cùng ngày sanh với ông nên người ta nói là hai anh em sanh đôi. Đây là chuyện riêng của gia đình nên ông giử im lặng. Sau gia đình trở về đảo La Réunion sanh sống. Ông lớn lên ở đây. Và cũng ở đây, đảo La Réunion, một phần gia tiên của ông lập nghiệp từ thế kỳ XVII.

Phải chăng do bẩm sanh mà ông và em trai của ông, Paul Vergès, đã có ý thức chánh trị rất sớm. Năm 12 tuổi, hai người đã tham gia một cuộc diển hành của Mặt Trận Bình dân ở Saint Denis.

Năm 16 tuồi, ông đậu Tú tài và học luật. Năm rưởi sau, ông rời khỏi đảo La Réunion để tham gia Kháng chiến. Năm sau, ông tới Anh tham gia vào Lực Lượng Pháp Tự do. Với cấp bực Hạ Sĩ quan của Kháng Chiến Quân, ông đánh giặc ở Ý, rồi qua Pháp. Nhiều lần, ông được khen thưởng Huân chương Kháng chiến. Ông theo De Gaulle và theo cộng sản. Có lẽ ở ông, theo De Gaulle lúc đó là thể hiện lòng yêu nưóc, chiến đấu giải phóng nước Pháp, theo "cộng sản là để tranh đấu cho công bình xã hội"?

Tới Paris sau Thế chiến, ông gia nhập Đảng Cộng sản Pháp.

Năm 1950, Jacques Vergès được bầu vào Ban Bí thư của Liên Hiệp sinh vìên tại Praha, Tiệp, Đại diện cho đảo La Réunion đã làm cho Đảng Cộng sản Pháp quan tâm đặc biệt. Ông gia nhập đảng cộng sản để có thế chống thực dân mạnh hơn .

Trở về Pháp, ông học xong cử nhơn luật. Ông ghi tên vào Luật sư Đoàn ở Paris và dự thi tuyển vào Luật sư Đoàn Paris.

Jacques Vergès nổi tiếng là «thằng nhỏ xách động chống thực dân Khu La-tinh», Quận V Paris. Ông lãnh đạo Hội sinh viên dân đảo Réunion, có dịp kết bạn với Ông Mohamed Masmoudi, kháng chiến Tunisie và những lãnh tụ Khò-me Đỏ sau này như Saloth Sâr được biết dưới tên Pol Pot và Khieu Samphân, … Jacques Vergès vận động Đảng Cộng sản và Xã hội Pháp hảy can thiệp vào tình hình ở Algérie.

Ông chiến đấu cho Mặt trận Quốc gia Giải phóng và bênh vực cho cán binh của Mặt trận. Từ đó ông được dân chúng Algérie gọi ông là «Người Chiến thắng».

Nữ cán bộ Mặt trận Kháng chiến Algérie, Bà Djamila Bouhired, bị lính nhảy dù Pháp bắt và tra tấn vì tội khủng bố đã đặt bom làm thiệt mạng 6 người, gây thương tích 60 người có cả trẻ con. Ra Tòa, bà bị kết án tử hình. Ông lãnh biện hộ làm cho ông bị cấm hành nghề một năm. Vài năm sau, thân chủ của ông trở thành vợ và sanh cho ông hai người con, một gái và một trai. Theo vợ, ông vào Hồi giáo.

Bà Djamila Bouhired lúc bịnh qua Paris chửa trị, ăn ở tại Hotel Georges V, thứ Hotel sang trọng ngoại hạng của Paris, do Chánh phủ Pháp đài thọ chi phí theo qui chế «đối nhơn cao quyền » bị dư luận Pháp phản đối mạnh. Dân chúng Pháp không chấp nhận ưu đải kẻ khủng bố, trong số nạn nhơn có con em nước Pháp.

 

Năm 1957, ông ra khỏi Đảng Cộng sản Pháp vì cho rằng đảng cộng sản không đủ nhiệt tình giúp Mặt trận Quốc gia Giải phóng Algérie.

Algérie độc lập, Jacques Vergès nhập tịch Algérie, làm Đổng lý Văn phòng cho Tổng trưởng Ngoại giao Algérie, xuất bản tập san Đệ Tam Thế giới (Revue Tiers-mondìste) và Tập san Cách mạng phi châu (Revue Révolution africaine). Năm 1963, ông gặp Mao Trạch-đông và nhanh chống, ông theo đường lối của Mao. Ông bị Chánh phủ Algérie giải nhiệm và trở về Pháp. Ông là mao-ít đầu tiên ở Paris.

Rồi ông đình bản tập san Cách mạng, trở qua Algérie làm luật sư ở Alger cho tới năm 1970.

 

Như Công tử Nam  

Những năm sau này, Jacqưes Vergès về ở với Bà Hầu tước (La marquise) Marie-Christine de Solages tại từng 1 căn nhà số 27, Bến Voltaire, nơi Nhà văn Voltaire mất năm 1778. Ông mất vào mùa hè năm rồi, 2013, tại phòng nơi Voltaire chết, không để lại di chúc, cũng không để lại một lời nào về ý muốn đám tang của ông sẽ được tổ chức như thế nào. Ông chỉ để lại 600 000e tiền nợ. Mà nợ chủ nhà và Chánh phủ Pháp. Cái già tới mau quá, ông không hay biết kịp. Trong những tháng cuối đới, ông không có tiền và lại bịnh hoạn. Ông đi khám mắt mà không có tiền trả bác sĩ. Một hôm, ông phải gọi Ông Roland Dumas, bạn thân và đồng nghiệp, Cựu Tổng trưởng Ngoại giao của TT. Mitterrand, cho ông mượn tiền xài tạm. Tang lễ của ông do Luật sư Đoàn đài thọ. Bà vợ người Hồi giáo, mẹ của 2 con của ông, không tới. Hai con của ông và bà bồ, Hầu tước Marie-Christine de Solages, có mặt bên quan tài. Riêng cậu con trai Lies ngủ đêm đầu tiên khi ông mất trong phòng với ông nhưng dưới thảm.

Trước cửa nhà thờ, có đặt một tràng hoa hồng đỏ thắm thật to. Người ta nhìn kỹ mới thấy tràng hoa được gởi từ nhà tù. Trong phòng lễ, ở hàng cuối, là những người phi châu đen và bắc phi âm thầm tới tiển đưa ông vì lòng ngưỡng mộ.

Đầu năm 2013, công chúa á-rặp Alanoud Alfayez, sau khi ly dị với vua Abdallah, sống lưu đày ở Luân-đôn nhờ Jacques Vergès tổ chức một chiến dịch can thiệp với nhà vua để 4 ngưòi con gái của bà bị nhốt trong hoàng cung từ hơn mười năm nay được thả ra. Công chúa ứng trước cho ông 500 000e. Ông chia ngay cho Ông Roland Dumas 170 000e để viết thư gởi ông Đại sứ của Arabie saoudite ở Paris, 100 000e cho luật sư Xavier Magnée, … Đó là nếp sanh hoạt của Jacques Vergès từ xưa nay. Khi có áp-phe, ông kêu bạn bè tới chia việc để có thù lao. Không bao giờ ông giữ áp-phe cho riêng mình ông.

Tang lễ xong, văn phòng của ông được thanh lý. Đồ đạc được bán đấu giá, thu về 170 000e. Trừ thuế xong, số tìền còn lại chưa đủ trả nợ.

 

Hạnh phúc cuối đời

Tuy không tiền nhưng cuối đời, Jacques Vergès rất hạnh phúc. Bà Hầu tước cho chổ ở sang trọng, bên bờ sông Seine. Và cung cấp xi-gà cu-ba, thứ ngon và đắc tiền, cho ông hút. Vì ông ghiền xi-gà. Bà tới với ông và từ đó hai người không thể rời nhau chỉ qua một câu ngắn ngủi «Bà là người phụ nữ của đời tôi». Ông là một luật sư quốc tế nổi tiếng. Thế mà khi tán gái chỉ có mấy lời bình thường. Mà kết quả nhanh như chớp. Chẳng lẽ cái hùng biện lại đơn giản vậy sao?

Bà bồ còn đãi ông 5 tuần bồi dưỡng tại một trung tâm sức khỏe ở Thụy sĩ. Ông là người quan  tâm săn sóc bản thân. Luôn luôn  giữ người cho thơm tho, móng tay phải được thợ móng tay chuyên nghiệp cắt cho. Tóc phải được giữ cho óng mượt như tơ.

Trước đây 4 năm, hai người gặp nhau trong một bữa ăn do người bạn chung của 2 người  đải. Bà Hầu tước kể lại ngay hôm đó bà bị một cú xét ái tình sau 16 năm sống độc thân.

Từ đó, hai người hằng ngày đìện thoại nhau từ 12 tới 15 lần.

 

Duyên tiền định. Ở trong căn nhà này, trước kia, Voltaire, triết gia thời Ánh Sáng, có tên bắt đầu bằng mẫu tự V và có bà Hầu tước Chatelet. Nay Ông Vergès ở, tên cũng bắt đầu bằng V và cũng có bà Hầu tước Maris-Christine de Solages. Hai người chết cùng trong một phòng ở từng I.

Xưa nay chưa biết Venise. Năm 2012, hai người cùng đi Venise cho biết. Họ ở trong một lâu đài trông ra Kênh Lớn, rộng 1000 m2, với cả Maitre d’Hôtel. Chuyến đi này như đi tuần trăng mật tìền hôn nhơn. Vì họ dự định cưới nhau trong vài tuần nữa. Sau đám cưới, Jacques Vergès sẽ đưa bà đi qua Thái-lan, Mìên, nơi ông có nhiều bạn bè. Cái chết quá đột ngột đã làm cho ông không kịp thực hiện những mơ ước đẹp cuối đời.

 

Hôm 15 tháng 8 năm 2013, Ông Jacques Vergès và bà Hầu tước vào bếp cùng sửa soạn bữa ăn tối. Vergès bảo bà De Solages làm cho ông dĩa thịt cừu. Bà rót cho ông ly Talbot đỏ ( giá 1 chai năm 2012 là 45e, năm 2013 là 31e). Tay cầm ly bordeaux đỏ, ông nói với bà «Tôi thấy chóng mặt». Ông ngồi xuống ghế lấy lại sự bình tỉnh. Ông ngã vào tay bà Hầu tước. Ông chết trong sự êm ái, trong tình yêu, trong niềm hạnh phúc, với nụ cười làm dịu nét mặt của ông. Ông chết trong căn nhà của ông. Trong vòng vài mươi giây, tay của ông vẫn còn cầm ly Talbot đỏ.

Dự định hai người sẽ cưới nhau không bao giờ thực hiện được. Bà Hầu tước trở lại sống độc thân.

Thời trẻ, Jacques Vergès dấn thân tranh đấu chống thực dân, giải phóng dân tộc bị áp bức, bất công và theo cộng sản. Khi làm Luật sư, ông dấn thân bênh vực những tội phạm hình sự quốc tế tày trời. Thứ tội chống nhơn loại. Việc làm của ông bị nhiều người cho là vi phạm đạo đức nghề nghiệp.

Khi cuối đời chết trên tay một bà Hầu tước, lớp người của Quân chủ phong kiến, nhà ở bên bờ sông Seine, tay cầm ly Talbot đỏ.

Có phải chết trong hạnh phúc không? Vua chúa, có người chết không mồ mã chỉ vì ác ôn!

 

 

Nguyễn thị Cỏ May

 

 

 

 

 

 


.
,

Ý kiến bạn đọc
16/11/201417:06:28
Khách
"Có phải chết trong hạnh phúc không? Vua chúa, có người chết không mồ mã chỉ vì ác ôn!" Câu nói nầy nên xét lại..có những người lính hy sinh mất tích, những người đi học cải tạo chết trong rừng, người đi vựơt biên chết trên biển, mất tích trên biển, bao nhiêu mộ lính VNCH và thường dân bị bóc, san bằng sau 75 thì họ là những "ác ôn" nên không mồ? Còn Hồ chí Minh mồ lớn như lăng, mồ mả các tướng VC to đẹp bởi vì họ không phải "ác ôn"?
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.