Hôm nay,  

Tìm Hiểu Thơ Ca Việt Nam

23/11/201416:59:00(Xem: 4374)
TÌM HIỂU THƠ CA VIỆT NAM

(Lời tâm tình: Bài viết về “Đất Việt” khoảng một năm qua đã đăng tất cả 53 tỉnh thành của VN liên tục hằng tuần trên Việt Báo, nên không còn nữa. Nay “Trang Đất Việt” xin được gởi đến Bạn đọc về “Nếp Sống Việt” là một phần trong “Đất Việt”. Bài viết chỉ khái quát, không đi sâu từng chi tiết của đề tài. Cuối mỗi bài viết, phần “Thiết nghĩ” nếu có chỉ là góp ý của tác giả, không ngoài mục đích làm sáng tỏ thêm về nội dung đã biên soạn. Trang Đất Việt” được đăng hằng tuần, luôn mong mỏi nhúm nhen tình tự dân tộc, niềm yêu thương quê hương và giữ gìn Việt ngữ cùng văn hóa Việt.)
________________


Có lẽ sáng tác hay cảm tác một bài Thơ, thường do người có năng khiếu về thơ phú. Cảm tác một bài thơ, không phải là một sự ghép chữ, ghép vần, mà muốn cảm tác bài thơ được phong phú, thi nhân phải biểu lộ trọn vẹn sự cảm xúc của tâm hồn, trang trải hình ảnh nghệ thuật của nhịp điệu và âm điệu sao cho nhẹ nhàng, uyển chuyển và hàm súc.
Khái quát qua các thể thơ thường dùng ở Việt Nam:
Việt Nam có nhiều thể thơ. Soạn giả chỉ trình bày khái niệm một vài thể loại thông dụng. Thơ phú thường ở thể loại vần, nên bài thơ làm dù ở thể loại nào, đều cần phải có “vần”, Bài thơ không có vần sẽ trở thành một bài văn xuôi!
Vần và đối:
A- Vần: - Vần chính là vần có âm đọc một thanh như:
Vần bằng: An, tan, than.
Vần trắc: Át, bát, cát.
- Vần thông là hai âm có giọng tương tự nhau như:
Vần bằng: Cành, thành, hành (vần chính) sẽ thông vận với: Thanh, mình, chinh. Coi sẽ thông vận với: bồi, đời...
Vần trắc: Có, gió, nó (vần chính) sẽ thông vận với: C, đ, c, ch, gi. ánh, tánh sẽ thông vận với: cảnh, định...
- Hạn vận, phóng vận:
Hạn vận là vần thơ chỉ giới hạn một vần “độc vận”. Phóng vận là người làm thơ muốn làm vần gì thì tùy ý.
B- Đối trong thơ: Đối có đối âm và đối tự loại: Đối âm là Bằng (B) đối với Trắc (T), như sông đối với núi. Đối tự loại là danh tự đối với danh tự, tĩnh từ đối tĩnh từ... Ví dụ: Trời đối đất hay vội vàng đối với chậm chạp. Khi đối cả âm và tự loại là đối cân, nếu chỉ có đối âm, hoặc chỉ có tự loại, là đối lệch.
Tiểu đối là trong một câu có 2 đoạn đối nhau như:
Khi gió mát, (đối với) lúc trăng thanh (Kiều)
Bình đối là câu trên đối với câu dưới như:
Chiếc ngựa trắng đi về góc bể (đối với câu dưới)
Đàn chó xanh trở lại chân trời (Tác giả: Cao Bá Nhạ)
- Yêu vận và cước vận: Yêu vận (y.v.) là gieo vần câu thơ ở giữa câu và cước vận (c.v.) là gieo vần câu thơ ở cuối câu,
ví dụ: Nửa quả địa cầu nhớ nhung cố quốc(c.v.)
          Sống xa em đơn độc(y.v.) tháng ngày(c.v.)
          Muốn vui mượn rượu giải khuây(c.v.)
          Sầu thêm chất chứa lại đầy(y.v.) không vơi! (NLY)
I- Thơ lục bát: Thơ lục bát là thể thơ câu trên 6 chữ và câu dưới 8 chữ, thể thơ này bắt nguồn từ ca dao, phương ngôn... của Việt Nam, về luật bằng (b) và trắc (t) của lục bát:
b b t t b b
b b t t b b t b
Chữ viết đậm và có gạch dưới (b, t) là chữ vần của câu thơ. Những chữ ở số lẻ (1, 3, 5, 7) không cần theo luật bằng trắc, chữ ở số chẵn (2, 4, 6, 8) phải theo luật bình trắc, tuy nhiên chữ thứ hai câu lục, có thể đổi bằng ra trắc, ví dụ chữ đớn câu dưới:
     “Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng lời chung” (Kiều)
Lưu ý: Chữ thứ 6 và thứ 8 trong câu bát phải khác dấu, một chữ là không dấu (Đoản bình thanh) và một chữ là dấu huyền (Tràng bình thanh). Xem chữ (Tràng bình thanh) và chữ chung (Đoản bình thanh) câu thơ Kiều ở trên.
 
II- Thơ song thất lục bát: Thơ song thất lục bát, có: Hai câu (thất) bảy chữ, một câu sáu chữ và một câu tám chữ. Hai câu bảy chữ có đối hay không cũng được. Nên lưu ý trong 2 câu thất, các chữ ở số thứ tự thứ 3, thứ 5 và thứ 7, thường phải đúng bình trắc. Âm luật và cách gieo vần như sau:
1. b t t b b t t           (Hai câu bảy chữ, của hàng số một và số
2. t b b t t b b          hai, các chữ ở số: 3, 5, 7 không thay đổi).
3. b b t t b b            (Hai câu sáu và tám, luật bình trắc và gieo
4. b b t t b b t b        vần như thơ lục bát đã nói ở trên).
Gieo vần: Chữ thứ bảy (t) của câu 1 vần với chữ thứ năm (t) của câu 2. Chữ thứ bảy (b) của câu 2 vần với chữ thứ sáu (b) của câu 3. Chữ thứ sáu (b) của câu 3 vần với chữ sáu (b) của câu 4, và chữ thứ tám (b) của câu 4 sẽ vần với chữ thứ năm (b) của câu 1 (đoạn kế tiếp). Chú ý chữ thứ ba của câu 1 là trắc có thể đổi ra bình. Nhưng chữ thứ ba của câu 2 là bình, mà đổi ra trắc thì nghe chói tai. Ví dụ:
“Tình cách biệt, thủy chung son sắt
Sống chia ly héo hắt tâm can
Chim muông rẽ bạn ríu ran
Nhớ em quay quắt, mơ màng dáng em!” (NLY)
III- Thơ ngũ ngôn thơ thất ngôn (tám câu năm vần):
Thơ Ngũ ngôn và Thất ngôn bát cú, là loại thơ ảnh hưởng từ thơ Đường luật xuất hiện từ thời nhà Đường (Tàu). Bài thơ luật bằng là chữ thứ nhì của câu đầu có vần bằng (b) và bài thơ luật trắc là chữ thứ nhì của câu đầu có vần trắc (t).
Sau đây là một số âm luật thường dùng:

A- Ngũ Ngôn (tám câu năm Vần):
Luật Bằng
1.   b b t t B
2.   t t t b B
3.  t t b b t
4.  b b t t B
5.  b b b t t
6.  t t t b B
7.  t t b b t
8.  b b t t B
Luật Trắct
1.  t t t b B
2.  b b t t B
3.  b b b t t
4.  t t t b B
5.  t t b b t
6.  b b t t B
7.  b b b t t
8.  t t t b B
B- Thất Ngôn Bát Cú (tám câu năm Vần):
Luật Bằng
1.   b b t t t b B
2.   t t b b t t B
3.   t t b b b t t
4.   b b t t t b B
5.   b b t t b b t
6.   t t b b t t B
7.   t t b b b t t
8.   b b t t t b B
         
Luật Trắc
1.  t t b b t t B
2.  b b t t t b B
3.  b b t t b b t
4.  t t b b t t B
5.  t t b b b t t
6.  b b t t t b B
7.  b b t t b b t
8.  t t b b t t B

Câu 1 gọi là phá, nghĩa là mở ra, giới thiệu đề bài thơ, câu thứ 2 gọi là thừa, mở rộng ý câu phá (không cần đối).
Câu thứ 3 và 4 gọi là thực hay lĩnh, nói ý nghĩa của bài thơ muốn nói (hai câu này đối với nhau). Câu 5 và 6 gọi là luận hay cảnh, bày tỏ tâm tình của thi nhân. Hai câu luận luôn đối với nhau thật chỉnh.
Câu 7 và 8 là câu kết, kết luận ý bài thơ (không cần đối).
Về âm luật thơ ngũ ngôn hay thất ngôn, có “nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh”, tuy nhiên chữ thứ năm trong câu, không đúng theo luật bằng trắc đôi khi nghe chối tai.
IV- Thơ tứ tuyệt: Dùng 4 câu trong Ngũ ngôn hay Thất ngôn:
- Khi lấy 4 câu đầu (thì hai câu 3 và 4 đối nhau)
- Khi lấy 4 câu cuối (thì hai câu 5 và 6 đối nhau)
- Khi lấy 4 câu giữa (thì câu 3 đối với 4 và 5 đối với 6) - Khi lấy hai câu đầu (1 và 2) và hai câu cuối (7 và 8) bài thơ không cần đối. Ví dụ bài thơ tứ tuyệt “SỬ VIỆT-ĐẤT VIỆT”:
 SỬ truyền lập quốc, bởi Hùng Vương
VIỆT tộc cùng bào, lưu luyến thương
ĐẤT nước ngăn ngừa, Tàu lấn chiếm
VIỆT Nam hùng mạnh, phải lo lường (NLY)
 
V- Thơ yết hậu, là bài thơ mà tiếng sau cùng, dùng như một tiếng kêu! Xem bài “Anh nghiện rượu” của Phạm Huy Hổ:
Sống ở nhân gian đánh chén nè
Thác về âm phủ giắt kè kè
Diên vương phán hỏi mang gì đó?
Be!
VI- Thơ liên hoàn: là loại thơ làm hai hay nhiều bài, mà câu cuối bài trên và câu đầu bài dưới giống nhau.
VII-Thủ vĩ ngâm: là thơ làm câu đầu và câu cuối giống nhau, như bài thơ “Khóc ông phủ Vĩnh Tường” của Hồ Xuân Hương:
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi!
Cái nợ ba sinh đã trả rồi.
Chôn chặt văn chuơng ba thước đất,
Tung hê hồ thỉ bốn phương trời.
Cán cân tạo hoá rơi đâu mất,
Miệng túi càn khôn khép lại thôi.
Hăm bảy tháng trời là mấy chốc,
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi!
 
VIII- Thơ Lục Ngôn Thể: Hình thức giống bài thơ thất ngôn, nhưng 2 câu thực và 2 câu luận, mỗi câu chỉ có 6 chữ (không phải mỗi câu đều 7 chữ như thất ngôn bát cú). Như bài thơ “Thế Sự” của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
1- Chưa dễ ai là Phật Thích Ca
2- Nỗi niềm nhân nghĩa nhẫn thì qua
3- Lòng vô sự trăng in nước            (câu thực 3&4, 6 chữ)
4- Của thảng lai gió thổi hoa          (câu thực3&4, 6 chữ)
5- Khi khách xuân xanh thuở trẻ     (câu luận 5&6, 6 chữ)
6- Mấy người đầu bạc tuổi già        (câu luận 5&6, 6 chữ)
7- Thanh nhàn ấy ắt là tiên khách
8- Được thú ta, là có thú ta.
IX- Thơ tràng thiên: Khi làm một bài thơ, muốn làm theo lối “thất ngôn”. Nhưng gặp đề mục bao la, bài thơ cần dài mới hết ý, thì phải làm theo lối “thơ tràng thiên”. Thơ tràng thiên thường làm theo lối cổ phong và theo luật.
Sau đây là bài: “Phong Cảnh Kiếp Bạc” của tác giả Phan Kế Bính:
1- Trời Nam riêng một cõi danh bồng
2- Sơn thuỷ thiên nhiên cảnh lạ lùng
3- Bắc đẩu Nam tào chia tả hữu
4- Huyền đăng trăm ngọn đá chông vông
5- Mấy vùng cổ thụ bóng sầm uất
6- Một dãy cao phong thế trập trùng
7- Bãi cỏ se sè hình lưỡi kiếm
8- Nước trong leo lẻo một dòng thông
9- Ráng toả chiều hôm chim ríu rít
10- Mây tuôn ban tối khối mịt mùng
11- Phong cảnh bốn mặt dẹp như vẽ
12- Một toà lâu đài cao sát không
13- Rèm ngọc sáng choang mây núi bắc
14- Gác hoa bóng lộn sóng chiều đông
15- Đại vương khi nhàn rẽ tượng trúc
16- Theo sau một vài đứa tiểu đồng
17- Thủng thỉnh cuộc cờ khi gió mát
18- Thung dung ngâm vịnh lúc trăng trong
19- Nghĩ mình thú hứng vui này sót
20- Ngắm cảnh non sông thoả tấc lòng
21- Tuổi già cảnh thú công danh trọn
22- Than ôi! Đại vương thật anh hùng.
(còn tiếp)
Nguyễn Lộc Yên



.
,

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.