Hôm nay,  

Tìm hiểu về viện Khổng Tử - Kỳ cuối

2/7/201502:29:00(View: 4979)

CHỐNG TÀU DIỆT VIỆT CỘNG

Bản tin số 55— Ngày 06 tháng 02 năm 2015 

 

Tìm hiểu về viện Khổng Tử - Kỳ cuối

Nguồn: The Nation (29/10/2013)

Tác giả: Mashall Sahlins

Người dịch: Trần Văn Minh

06/02/2015

Viện Khổng Tử kiểm duyệt các cuộc thảo luận chính trị và hạn chế sự tự do trao đổi tư tưởng. Tại sao, sau đó, các trường đại học Mỹ bảo trợ cho họ?

blank


​Sự thành lập Học viện Khổng Tử tại Đại học Chicago được ghi là, như được dự đoán, "định chế tự do" trong cả khái niệm ban đầu lẫn nội dung học thuật. Henry Paulson gần đây đã đóng góp vài triệu đô la cho một viện mang tên mình, nằm trong tòa nhà riêng biệt trên mảnh đất quan trọng gần trường đại học chính. Hiện nay đang được tu sửa và kế bên khuôn viên trường là các dãy nhà của một nhà thờ lớn được dự kiến là chỗ ở mới của Phân khoa Kinh tế của đại học Chicago nổi tiếng và viện Friedman Becker, điều đó đặt ra cho các kiến trúc sư những thách thức lớn trong việc thay đổi cách thức sắp xếp theo chức năng các tòa nhà trong khi vẫn bảo tồn đặc tính tôn giáo của nó. Viện Khổng Tử (VKT), ngoài việc cung cấp giáo viên dạy ngôn ngữ từ Trung Quốc, còn tài trợ công trình nghiên cứu cần thiết về các lãnh vực phát triển kinh tế Trung Quốc – thực ra, nhiều về kinh tế hơn so với việc giảng dạy ngôn ngữ. Như với các viện khác tại Chicago, nguồn gốc của VKT ghi dấu ấn của một người, nhà khoa học chính trị Dali Yang, vào thời điểm khi ông sửa soạn bản dự thảo cho VKT, là giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đông Á. Trong khoảng một năm, Yang đã có thể đưa dự thảo vào các cuộc đàm phán với các viên chức Trung Quốc, các quản trị viên và đồng nghiệp giảng viên tại đại học Chicago.

Yang đã không thể dựng nên VKT một mình; tổ chức của ông đã thành công bởi vì có sự tham gia của các định chế đại học lớn, đưa tới cho tổ chức của ông sức thuyết phục và sự hỗ trợ hiệu quả. Một mặt, có sự thỏa thuận ngầm sẵn sàng của ban điều hành trường đại học, điều cũng giống như nhiều đại học khác dễ dàng bị lôi cuốn vào sự thèm thuồng đáng xấu hổ đối với tiền của, sự quyến rũ và vinh quang. Đại học Chicago rất tự hào về truyền thống của họ. (Theo lời kể của Thorstein Veblen trong cuốn sách “Học vấn trình độ cao tại Mỹ” [1918], một sự quan tâm mang tính cạnh tranh nào đó về danh tiếng học viện và uy tín trước công chúng của giới học thức uyên bác đã xuất hiện vào đầu thế kỷ XX.) Mặt khác , Yang biết làm thế nào để đáp ứng sự chú ý mới của Hanban về vấn đề "nghiên cứu cốt lõi", và chủ yếu là sự ham muốn lộ liễu của Trung Quốc đối với phân khoa kinh tế của đại học Chicago. Theo Ted Foss, Trung tâm Nghiên cứu Đông Á thường xuyên bị tràn ngập bởi các cuộc gọi từ Lãnh sự quán Trung Quốc yêu cầu để sắp xếp một buổi chụp hình với Gary Becker [giáo sư kinh tế tại đại học Chicago] cho một phái đoàn quan chức cao cấp.

Tại Chicago, Hanban đã đạt được những điều họ muốn: không những số lượng vượt trội các dự án nghiên cứu về sự phát triển kinh tế Trung Quốc, mà còn có được một hội nghị chuyên đề hàng năm giữa đại học Chicago và Renmin về Kinh tế gia đình và lao động, hiện đang trong năm thứ tư. Đại học Renmin, với tư cách đồng hành với các VKT trong số hơn chục trường ngoài đại học Chicago, nhiều hơn bất kỳ đại học nào khác của Trung Quốc, có tiếng tăm như Janus (vị thần 2 mặt, có thể nhìn thấy tương lai và quá khứ). Tại Chicago, Renmin được ca tụng như trường đại học hàng đầu của Trung Quốc trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn, trong khi ở Trung Quốc, đại học này được mọi người biết đến như trường đại học của đảng, vì nó được thành lập bởi Đảng Cộng sản và là nơi đào tạo bắt buộc chính yếu cho cán bộ nhà nước. VKT tại đại học Chicago phô bày bộ mặt tức cười của Cộng sản Trung Quốc trong việc sử dụng tên tuổi của Khổng Tử để chuyển tải tư tưởng chủ nghĩa tư bản ưu việt của Gary Becker như sự lựa chọn hợp lý.

Một sự mâu thuẫn còn lớn hơn nữa là viện Khổng Tử chấp nhận truyền thống thả lỏng được yêu quý của đại học, trong cả hai vấn đề tự do học thuật và triết lý kinh tế, trong một dự án toàn cầu được thiết kế để mở rộng ảnh hưởng chính trị của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Sự kết hợp đầy mâu thuẫn giữa tự do kinh doanh và sự kiểm soát của nhà nước đã xảy ra vào tháng 4 năm 2008, khi Dali Yang và Ted Foss tham khảo ý kiến một đại diện giáo dục của Trung Quốc tại Chicago về các đòi hỏi tổng quát cho một Viện Khổng Tử. Từ lời thú nhận của hai vị này, bao gồm một bản phác thảo lịch sử của VKT Chicago do Yang viết, quá trình tham vấn tiếp theo bao gồm sự cảnh giác từ sớm cho các khoa trưởng của khoa nhân văn và khoa học xã hội này. Sau đó, Yang đã trình bày dự thảo về VKT đại học Chicago với các học giả Trung Quốc thuộc Trung tâm Nghiên cứu Đông Á, những người sau một cuộc thảo luận đã đồng nhất chấp thuận việc thành lập. Đây là nhóm duy nhất được bỏ phiếu (các học giả Hàn Quốc và Nhật Bản đã bị loại ra khỏi tiến trình), và họ là số giảng viên đại học duy nhất hay biết về VKT trước khi viện được khánh thành.

Sau đó, vào năm 2010, sau khi tin tức về thỏa thuận trở nên phổ biến, 174 giảng viên đại học Chicago đã ký một bản kiến nghị phản đối sự chấp thuận thiếu sáng suốt của đại học về viện Khổng Tử mà không có sự đồng ý của ban quản lý, là đại diện hợp pháp cho họ. Theo tường trình lịch sử của Dali Yang, hội đồng điều hành của Trung tâm Nghiên cứu Đông Á đã thảo luận về VKT trong một năm trước khi thành lập, nhưng ít nhất một thành viên của hội đồng nhỏ này - Bruce Cumings, sử gia nổi tiếng về Hàn Quốc - không hay biết về sự tồn tại của VKT cho đến tròn sáu tháng sau khi thỏa thuận đã được ký kết và đóng dấu với Bắc Kinh. (Hội đồng điều hành của trung tâm họp rất bất thường, theo Foss, thậm chí còn ít hơn một lần một năm.) Mặt khác, buổi tham vấn duy nhất khác là một cuộc họp vào cuối ngày với một "nhóm làm việc nhỏ của khoa, các khoa trưởng, và quản trị viên”. Vào tháng 9 năm 2009, bản đề nghị thành lập VKT được trình cho Hanban. Ngày 29 Tháng 9 năm 2009, thỏa thuận thành lập Học viện Khổng Tử được ký kết bởi một phó hiệu trưởng đại học và giám đốc điều hành của Hanban. Ngày 1 tháng 6 năm 2010, viện được chính thức khai trương, với sự tham dự của hiệu trưởng đại học Chicago và quan chức Hanban trong buổi lễ.

Trong số những nhượng bộ mà Hanban dành cho Chicago là loại bỏ điều khoản bí mật khỏi thỏa thuận VKT. Rõ ràng là không cần điều khoản này, bởi vì viện Khổng Tử vẫn còn là một bí mật trong các khía cạnh quan trọng đối với các thành viên của hội đồng điều hành khoa, là ban giám sát hoạt động của VKT. Đứng đầu là khoa trưởng khoa nhân văn, Martha Roth, hội đồng bao gồm hai giáo sư khác của đại học Chicago và hai thành viên do Đại học Renmin bổ nhiệm. Roth cho biết trong một cuộc phỏng vấn rằng bà không biết các điều khoản của bộ luật căn bản của viện Khổng Tử: "Tôi không nhớ có nhìn thấy nó". Bà cũng không nhớ những điều khoản của hợp đồng mà trường đại học đã ký kết với Hanban. Bà nghĩ, một cách sai lầm rằng Hanban ở "dưới sự chỉ dẫn và bảo trợ của Bộ Giáo dục [Trung Quốc]" – một ấn tượng Hanban chính thức chuyển tải trong các văn bản tiếng Anh bằng sự “liên kết" của họ với bộ đó, thay vì với hội đồng các quan chức chính phủ mà họ báo cáo trong thực tế. Khi được hỏi về việc đệ trình dự án nghiên cứu lên Bắc Kinh để được chấp thuận và tài trợ, Roth tìm thấy những thủ tục không thể phản đối được, giống như công việc đệ trình dự án lên Bộ Giáo dục Hoa Kỳ. Bà cũng chẳng quan tâm đến các vấn đề xảy đến với viện Khổng Tử tại các trường đại học khác, Bà hài lòng khi đại học Chicago vẫn theo đuổi nguyên tắc riêng của họ về tự do học thuật. Khi được yêu cầu bình luận về các quy định chi phối các viện Khổng Tử trong bộ luật của Hanban và trong hợp đồng, Roth trả lời rằng các câu hỏi như vậy “tốt hơn nên đặt với văn phòng pháp lý" của đại học.

Tuy nhiên, Roth chắc chắn rằng Bắc Kinh không cung cấp giáo viên tiếng Hoa cho đại học Chicago và trả lương và vé máy bay cho họ, như quy định trong các văn bản chính thức. Bà nói đáng lẽ ra Hanban đã làm như vậy hai năm trước đây, nhưng "điều đó chưa bao giờ xảy ra". "Thật là đáng tiếc", Bà nói, "bởi vì chúng tôi cần thêm lớp dạy tiếng Hoa". Có lẽ sai lầm hiển nhiên này xảy ra bởi vì các giáo viên do Hanban cung cấp dạy các cua trong thời biếu thường xuyên của chương trình đại học bốn năm, chứ không phải trong chương trình giảng dạy của chính viện Khổng Tử. Hanban đã từng cung cấp hai, hoặc nhiều hơn, giảng viên ngôn ngữ khách cho Đại học Chicago từ năm 2006, thậm chí trước khi có thỏa thuận chính thức; kể từ khi thỏa thuận được ký kết, sự cung ứng vẫn tiếp tục theo các điều khoản của thỏa thuận. Dự thảo của Chicago cho viện Khổng Tử, như đã nói trước đây, có một thành phần giảng viên đáng kể. Tuy nhiên, quan niệm sai lầm vẫn tiếp tục kéo dài về cách thức các giáo viên được lựa chọn.

Đề cập đến một nhượng bộ khác [của VKT] với đại học Chicago, cả Dali Yang và Ted Foss nói trường đại học kiểm soát phần lớn việc tuyển dụng giáo viên dạy ngôn ngữ từ Trung Quốc. Theo lời của Yang, "Trường đại học đảm trách phần lớn tiến trình tuyển dụng các giáo viên Trung Quốc, không chỉ là quyền từ chối". Foss nói, "Chúng tôi có quyền quyết định ai là người được gửi tới". Tuy nhiên, giám đốc của chương trình tiếng Hoa tại đại học, người thuê mướn các giáo viên Hanban, có một cái nhìn khác về tiến trình. Bà nói rằng, dựa trên kiến thức của mình, tất cả giáo viên tiếng Hoa có thể đệ đơn xin việc, nhưng họ phải có trình độ ngôn ngữ cao cấp về tiếng Hoa và đã từng dạy sinh viên nước ngoài tại đại học. "Sau đó, họ cần phải trải qua cuộc khảo sát như về tiếng Anh và tâm lý. Nếu họ được Hanban chọn, họ cần phải tham dự một khóa huấn luyện. Họ nói rằng họ học được những điều như nghệ thuật dân gian truyền thống". Khi được hỏi Chicago đóng vai trò gì trong việc lựa chọn giáo viên, bà giám đốc, khi đó ở Bắc Kinh, trả lời: "Chúng tôi không chọn. Họ đề nghị, và chúng tôi chấp nhận”. Sáu tuần sau, chúng tôi gặp lại ở Chicago, bà cho biết trường có thể từ chối đề nghị của Hanban bằng cách rà soát các ứng viên VKT, và sau đó Hanban sẽ đề nghị giáo viên khác, nhưng điều này đã không xảy ra. Trong mọi trường hợp, vì Hanban hoạt động theo luật Trung Quốc - thí dụ như sự xác định Pháp Luân Công là một tổ chức tội phạm - Chicago sẽ dễ bị tổn thương, tuy rằng vô tình, do thực hành phân biệt đối xử trong việc mướn người, điều đã đưa Đại học McMaster ra trước một tòa án nhân quyền. Trường đại học còn dễ bị tổn thương hơn vì đại học trả tiền cho các giáo viên, được Hanban chọn, một phần lương bổ sung ngoài lương Trung Quốc của họ.

Sự vô ý này dường như còn nghiêm trọng hơn vì sự sơ suất về phía đại học, thậm chí, nằm ở các vị trí cao trong giới điều hành hơn những người có trách nhiệm quản lý trực tiếp. Ngày 4 tháng 6 năm 2010, ba ngày sau khi viện Khổng Tử của Đại học Chicago được khai trương, hiệu trưởng và giám đốc điều hành có một cuộc họp với các đại diện của hội giảng viên tự lập gọi là CORES, VKT đã được đem ra thảo luận. CORES đã khởi động một kiến nghị được 174 giảng viên ký tên phản đối điều họ gọi là "doanh nghiệp hóa" trường đại học, trong đó viện Khổng Tử và viện Friedman Milton là những thí dụ điển hình. Biên bản cuộc họp này đã được phổ biến đến mọi người tham gia, không có sự chỉnh sửa nào được yêu cầu cho bất kỳ nội dung nào. Biên bản chỉ ra rằng hai học giả về Đông Á nổi tiếng, Bruce Cumings và Norma Field, phản đối tính cách chính trị của viện Khổng Tử, vai trò của nó trong việc xác định những gì được dạy về Trung Quốc tại trường đại học, và cách thức thế nào để "hai giảng viên này và các giảng viên khác, những người phụ trách chủ đề Đông Á, bị loại trừ hoàn toàn khỏi các cuộc thảo luận và quá trình ra quyết định". Họ không phải là duy nhất: biên bản còn ghi lại rằng hiệu trưởng đại học, Robert Zimmer và giám đốc điều hành Thomas Rosenbaum "thừa nhận họ thiếu thông tin về vấn đề này và bày tỏ sự hoang mang và hối hận về sự việc đã xảy ra như thế".

Như thế, điều gì ngăn chặn Zimmer chưa cắt đứt quan hệ của Chicago với viện Khổng Tử, cũng như các đại học Columbia và London School of Economics chưa làm giống như vậy? Các đại học nổi tiếng chấp nhận VKT cần phải đi đầu trong việc đảo ngược quá trình, bởi vì vấn đề này có liên quan lớn hơn so với lợi ích của riêng họ: bằng cách chứa chấp một viện Khổng Tử, họ đã bắt đầu tham gia vào các nỗ lực chính trị và tuyên truyền của một chính phủ nước ngoài trong một cách trái ngược với các giá trị của tự do sưu tầm và phúc lợi con người mà họ từng cam kết. Trong vị thế hơn hẳn các cơ sở học thuật địa phương, các trường đại học cũng vậy, từng mỗi phần tử, là các thực thể mang tính toàn cầu: lý tưởng phổ quát của tự do sưu tầm vì lợi ích của tất cả nhân loại mà họ thành lập trên đó làm cho VKT không thể so sánh nổi. Đại học Chicago đã từng có quá khứ lâu dài sống với phương châm của mình: Crescat scientia; vita excolatur. Hãy để kiến thức phát triển, sau đó đời sống của con người sẽ nảy nở.

http://chongtaudvietcong.com/2015/02/07/tim-hieu-ve-vien-khong-tu-ky-cuoi/

 


.
,

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Trong bối cảnh thế giới đang trải qua những biến động nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và công nghệ, toàn cầu hoá – vốn từng được xem là động lực chính thúc đẩy cho tăng trưởng và thịnh vượng – đang đứng trước những thách thức chưa từng có. Tiến trình công nghiệp hoá và toàn cầu hoá đã đem lại nhiều thành tựu vượt bậc trong suốt thời gian dài qua, từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI, đặc biệt là thông qua sự chuyên môn hoá, tự do thương mại và tiến bộ công nghệ. Tuy nhiên, các cuộc khủng hoảng tài chính, đại dịch toàn cầu, chiến tranh và cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc đã khiến mô hình toàn cầu hoá truyền thống bộc lộ nhiều tình trạng bất ổn...
Nhiều thế hệ sống ở Sài Gòn những năm của thập niên 80-90, khi con gà trống của Thương Xá Tax chưa bị bức tử, khi những hàng cây cổ thụ trên đường Tôn Đức Thắng vẫn là nét thơ mộng của Sài Gòn, có lẽ đều quen thuộc với câu “Chương Trình Truyền Hình Đến Đây Là Hết…” Nó thường xuất hiện vào cuối các chương trình tivi tối, khi chưa phát sóng 24/24. Thời đó, mỗi ngày truyền hình chỉ phát sóng trong một số khung giờ nhất định (thường từ chiều đến khuya) nên hầu như ai cũng có tâm lý chờ đợi đến giờ ngồi trước màn ảnh nhỏ, theo dõi vài giờ giải trí. Đó cũng là chút thời gian quên đi một ngày cơ cực, bán mồ hôi cho một bữa cơm độn bo bo thời bao cấp. Nhắc nhớ chút chuyện xưa, để nói chuyện nay, đang diễn ra ở một đất nước văn minh hàng đầu, từng là niềm mơ ước của biết bao quốc gia về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận.
Trên mạng gần đây lan truyền một bức tranh chuỗi tiến hóa ngược nhại kiểu Banksy - vẽ hình ảnh tiến hóa quen thuộc từ khỉ tiến tới người, nhưng đến giữa chặng đường, một gương mặt ai cũng nhận ra quay lưng đi ngược lại về phía khỉ. Cái dáng ngoảnh đầu ấy khiến tôi chạnh lòng nghĩ đến hình ảnh nước Mỹ hôm nay. Giữa thế kỷ XXI, lẽ ra phải tiếp tục đi tới, nhưng thay vì mở rộng tự do học thuật – ngọn nguồn của sáng tạo – chúng ta lại thấy những dấu hiệu nước Mỹ thoái lui theo một quỹ đạo lạ lùng: thử nghiệm một kiểu “tiến hóa ngược”.
Từ khi Tối Cao Pháp Viện lật đổ Roe v. Wade, chúng ta đều biết câu chuyện không dừng lại ở đó. “Để tiểu bang tự quyết” chỉ là cái cớ. Và Texas, tiểu bang bảo thủ dẫn đầu, vừa chứng minh điều đó bằng một luật mới: trao cho bất kỳ ai quyền săn lùng và kiện những người dính dáng tới thuốc phá thai. Texas vốn đã có một trong những lệnh cấm khắc nghiệt nhất: phá thai bị cấm hoàn toàn, trừ vài ca y tế khẩn cấp. Không ngoại lệ cho thai dị tật chết non. Không ngoại lệ cho hiếp dâm. Không ngoại lệ cho loạn luân. Thế nên, nhiều phụ nữ Texas chỉ còn con đường tìm đến thuốc phá thai qua mạng, thường từ những nhà cung cấp ở ngoài tiểu bang. Luật mới nhắm thẳng vào cánh cửa mong manh ấy.
Suốt 250 năm, người Mỹ đồng ý rằng cai trị bởi một người duy nhất là sai lầm, rằng chính quyền liên bang vốn cồng kềnh, kém hiệu quả. Lẽ ra hai điều ấy đủ để ngăn một cá nhân cai trị bằng mệnh lệnh từ Bạch Ốc. Nhưng Trump đang làm đúng điều đó: đưa quân vào thành phố, áp thuế quan, can thiệp vào ngân hàng trung ương, chen vào quyền sở hữu công ty, gieo nỗi sợ để buộc dân chúng cúi đầu. Quyền lực bao trùm, nhưng không được lòng dân. Tỉ lệ chấp thuận của ông âm 14 điểm, chỉ nhỉnh hơn chút so với Joe Biden sau cuộc tranh luận thảm hại năm ngoái. Khi ấy chẳng ai lo ông Biden “quá mạnh”. Vậy tại sao Trump, dù bị đa số phản đối, vẫn dễ dàng thắng thế?
Có bao giờ bạn nói một điều rõ ràng như ban ngày, rồi nghe người khác nhắc lại với nghĩa hoàn toàn khác? Bạn viết xuống một hàng chữ, tin rằng ý mình còn nguyên, thế mà khi quay lại, nó biến thành điều bạn chưa từng nghĩ đến – kiểu như soi gương mà thấy bóng mình méo mó, không phải bị hiểu lầm, mà bị người ta cố ý dựng chuyện. Chữ nghĩa, rơi vào tay kẻ cố ý xuyên tạc, chẳng khác gì tấm gương vỡ. Mỗi mảnh gương phản chiếu một phần, nhưng người ta vẫn đem mảnh vỡ đó làm bằng chứng cho toàn bộ bức tranh. Một câu, một đoạn, một khẩu hiệu – xé khỏi bối cảnh trở nên lệch lạc – hóa thành thứ vũ khí đâm ngược lại chính ý nghĩa ban đầu. Câu chuyện của đạo diễn Trấn Thành gần đây là một minh họa. Anh chỉ viết đôi dòng thương tiếc chia buồn với sự ra đi của nghệ sĩ đàn bầu Phạm Đức Thành. Vậy thôi. Thế mà lập tức bị chụp mũ, bêu riếu, bị gọi “3 que,” “khát nước,” “Cali con.” Người ta diễn giải đủ kiểu, vẽ ra đủ cáo buộc: từ tội mê văn hóa Việt Nam Cộng Hòa đến tội phản quốc.
Sau thất bại trước đối thủ đảng Dân Chủ Joe Biden trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2020, nội các “gia đình trị” của Donald Trump gần như biến mất khỏi chính trường. Các đồng minh không thể có cùng tiếng nói với Trump, nhất là sau vụ bạo loạn Quốc Hội Jan 06. Duy nhất một người vẫn một lòng trung thành không bỏ rơi Trump, đó chính là Stephen Miller. Nhiệm kỳ hai của Trump, người được cho là có quyền lực hơn trong vòng tròn thân cận của Trump, hơn cả JD Vance, chẳng ai khác hơn chính là Stephen Miller. Để tạo ra những ảnh hưởng chính trong chính quyền Trump hôm nay, Miller đã có một đường dài chuẩn bị, khôn ngoan và nhẫn nại.
Đầu tháng 8 năm 2025, Tổng thống Donald Trump đã ký một mệnh lệnh đặc biệt, chỉ đạo các cơ quan hữu trách lập kế hoạch đưa quân đội Hoa Kỳ đi trấn áp các tổ chức tội phạm ở Mỹ Latinh. Khoảng hai tuần sau, mệnh lệnh đã thành hiện thực. Ba khu trục hạm có gắn phi đạn viễn khiển (guided-missile destroyers) của Hoa Kỳ đã được khai triển tới vùng biển Venezuela, đảm trách việc chặn giữ các chuyến hàng ma túy.
Một góc khuôn viên của Đồi Capitol sáng Thứ Tư là những câu chuyện tưởng đã bị chôn vùi, nay được kể ra trong sự run rẩy, xúc động và cả nước mắt. Trước hàng chục ống kính truyền thông chiếu trực tiếp trên toàn quốc, khoảng mười người phụ nữ lần lượt kể ra câu chuyện của chính mình – nạn nhân của Jeffrey Epstein, tỷ phú tội phạm tình dục và buôn bán mại dâm trẻ vị thành niên. Ngày đó, những phụ nữ này chỉ vừa 16, 18 tuổi, nhỏ nhất là Marina Lacerda, 14 tuổi.
Ở đời, chẳng có ngai vàng nào là miễn phí. Muốn hỏi cưới công chúa thì phải có sính lễ. Làm gì có chuyện đi tay không mà cuỗm được gái đẹp — trừ trường hợp dùng quyền lực bẩn thỉu cưỡng hiếp gái tơ (nghe quen quen). Muốn làm đàng anh đàng chị không thể vừa keo kiệt vừa đòi được người ta kính nể. Quy luật xưa nay không đổi ăn khế thì phải trả vàng. Ngai vàng toàn cầu cũng vậy -- không chỉ làm bằng vàng, mà còn bằng chi phí, lời hứa, và trên hết, là sự tín nhiệm.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.