Hôm nay,  

Ông Hai

19/02/201511:14:00(Xem: 5787)

 

Minh Mẫn

 

ONG HAI chuaKhông ai biết tên thật của ông, họ chỉ gọi ông là ông Hai. Những ai đến chùa Phật Quang, đường Đào Duy Từ, quận 10, kế sân vận động Thống nhất cũ của Sài gòn, đều bắt gặp người đàn ông lưng còng, tay chân cong vẹo, đi đứng khó khăn, khổ người khô khốc.

Hình như ông ngoài 50 thì phải, không ai đoán được tuổi của ông; ông ít nói và ông ít thân thiện với ai. Trong chùa, ngoài 10 vị sư, còn có 3 vị ni lớn tuổi, có gần chục em nam sinh viên ở trọ đi học. Ông là người đàn ông duy nhất tật nguyền, hai ông còn lại trên dưới 50, vẫn còn khỏe, phụ giúp việc nặng cho chùa.

-Thưa ông Hai, gia đình ông ở đâu? Con cái thế nào? Ông vào chùa công quả bao lâu rồi? Một tín đồ đến chùa lễ phép tìm hiểu

-Tôi không có gia đình, tật nguyền thế nầy làm sao có gia đình, vào chùa khá lâu, khi HT trụ trì cũ chưa viên tịch. – ông trả lời mà mắt vẫn chăm chú vào bịch cơm, bịch thức ăn đang chia phần để đem ra bố thí kẻ đói khổ ngoài đường mỗi ngày.

Công việc hàng ngày ở chùa, ông Hai phụ nhà bếp đổ rác, nhặt rau,làm vệ sinh các tầng lầu, thay nhang đèn. Gần 10 giờ sáng, ông Hai xuống bếp xúc một thau cơm trắng và đồ ăn, đem lên lầu thờ vong, ngồi ngoài vỉa hè phía sau để chia cơm vào bịch nilon.

-Thưa ông Hai, cơm nầy do chùa nhờ ông phân phối hay ông tự xin chùa để làm từ thiện?

-Chùa không nhờ tôi mà tôi cũng không xin cơm chùa để làm từ thiện – ông vẫn không ngước mắt nhìn người hỏi

-Vậy tiền đâu ông làm?

-Ai đến chùa cúng lễ, họ cho tiền, tôi để dành mua gạo và rau củ gửi chùa nấu.

Ông nằm dưới nền gạch với chiếc chiếu cũ rách, trước kia có người cho ông cái ghế xếp, nay ghế đã gãy, ông vào một góc tầng trệt với tài sản duy nhất là mấy bộ đồ cuộn làm gối, chiếc chăn đen đúa. Chân không có dép, đầu không đội nón. Mỗi lần ra khỏi chùa, không lẫn vào ai với cái lưng còng cố gượng thẳng, hai tay khẳng khiu bơi bơi để giữ thăng bằng, gương mặt cằn cổi với cái đầu đầy gân chạy dọc xuống cổ. Cặp chân teo, khô, da sạm mốc cố giữ thân mình cho khỏi chúi về trước. Hai tay cầm 10 túi cơm chay, đi về hướng sân bóng đá, ông trao cho người bán vé số ngồi xe lăn, bác xe ôm, chị nhặt ve chai, cháu bé đi xin... toàn là những “khách hàng” thường xuyên của ông mỗi người một bịch. Tuy thân thể thường đau nhức, nhưng ông Hai không ngày nào thiếu vắng trên đoạn đường Nguyễn Kim. Hình bóng ông quá quen thuộc với người dân lao động địa phương.

Một người gần chùa biết chuyện, tâm sự: - Trước kia gia đình ông Hai ở khu cầu Ông Lãnh, bị giải tỏa đi kinh tế mới, bố bị cây rừng ngã đè, không bao lâu sau vì không có tiền về Thành phố chạy chữa, chấn thương cột sống, bại liệt toàn thân, mẹ bị sốt rét, người em của ông còn nhỏ, quá đói, ăn phải nấm độc đã chết, một mình ông, tuổi mới lớn, phải làm thuê cuốc mướn lo cho gia đình. Lúc trẻ lưng ông đi đứng thẳng thớm như mọi người, do hằng ngày còng lưng trên nương rẫy, làm việc nặng nhọc, ăn uống thiếu dinh dưỡng, mỗi ngày lưng ông còng thêm một ít, khi dừng việc cuối ngày, ông đứng thẳng lưng lên cảm thấy hơi khó chịu vì các khớp khô cứng, cứ thế lâu dần năm tháng, ông không còn đi thẳng lưng được để khuân vác tại các bến bãi.

Cha mẹ qua đời, ông về lại Thành phố lây lất sống. Một buổi tối mưa lạnh, ông co quắp bên hông chùa chờ giấc ngủ muộn, thầy trụ trì nhìn thấy, gọi ông vào cho làm công quả tùy sức. Từ dạo ấy, ông không nhớ đã bao mùa mưa nắng, chỉ biết cứ tiếng Đại hồng chung khuya là ông đến thắp nhang các bàn thờ, ngồi một góc khuất để niệm Phật. Tối đến, sau thời Tịnh độ, ông chui vào một góc tìm giấc ngủ say. Việc chùa không ai nhắc nhở, ông tự nguyện luôn tay luôn việc.

Gia đình nhà đám làm tuần 49 ngày ở chùa, các cô gái nhà đám tổ chức cúng Trai Tăng, họ nhìn ông với sự xót thương như một người thân, thường xuyên dúi vào tay ông những tờ bạc xanh lớn nhất

- Tiền con gửi ông Hai mua chiếc ghế bố để nằm, sao ông không mua? Để con mua hén. - Cô Hạnh thay mặt nhà đám thăm hỏi ông.

- Thôi cô à. Cám ơn quý cô đã nghĩ tình lo cho tôi, còn nhiều người khổ hơn tôi đang lây lất ngoài xã hội. Tôi được nương náu ở chùa là phúc lắm rồi. Đâu dám xài phí đồng tiền của bá tánh. Dùng tiền đó tôi mua gạo để nấu cơm bố thí hàng ngày. - Cô Hạnh lại tiếp tục nhét vào tay ông như những tuần trước, ông lí nhí cám ơn.

- Ông đã nghèo còn lo cho người nghèo, không để dành tiền khi ốm đau mà có. – Cô Hạnh nhắc ông.

- Trời sinh voi sinh cỏ cô à. – Ông thật thà đáp.

Trai Tăng vừa mãn, ông Hai cũng vừa về tới chùa, trên tay cầm một túi gạo, một ít bịch nilon mới và rau củ quả để làm cơm từ thiện vào ngày mai.

Gia đình nhà đám nhìn ông Hai, trao đổi với nhau: Lòng từ bi và làm từ thiện đâu đợi phải đại gia tỷ phú, trong tầm tay, gói cơm miếng canh để chia sớt cho người nghèo khổ quanh ta cũng thể hiện tấm lòng nhân ái, tại sao ta không làm được như ông Hai!!!

MINH MẪN

16/02/2015

(Nguồn: http://thuvienhoasen.org/)

Ý kiến bạn đọc
20/02/201510:46:53
Khách
Dung chinh xac 100%. Ho hang cua toi bi len kinh te moi, ho khai khan dat va thanh cong, den khi dat noi do co gia, can bo noi do tich thu, noi rang dat nay la dat cong, duoi ho hang nha toi di cho khac. Cung cuc qua ho lech thech ve thanh pho...tro thanh ke vo gia cu...
20/02/201503:59:19
Khách
Bài này quá cảm động. Ông Hai đúng là nạn nhân của chế độ đuong thời. Nếu như gia đình ông không bị đày lên khu kinh tế mới, thì cuọc sống của ông đã khác đi nhièu lắm rồi.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Do đó, chỉ khi nào người dân được quyền trực tiếp chọn Lãnh đạo qua bầu cử tự do, công bằng và dân chủ thì khi ấy những kẻ bất tài, có thành tích xấu, hay chỉ biết thu vét cho đầy túi tham, lợi ích nhóm hay làm tay sai cho Ngoại bang mới bị loại khỏi đội ngũ cầm quyền. Ngược lại, nếu vẫn tiếp tục chọn người theo thông lệ “đảng cử dân bầu” hay “đảng chọn, cán bộ bỏ phiếu” thì có trăm năm, nhân dân Việt Nam vẫn chưa tìm thấy ánh sáng ở cuối đường hầm.
Khi bỏ nước ra đi tìm tự do, tất cả bậc cha mẹ Việt Nam đều nghĩ đến tương lai của các đứa con mình.Các con cần phải học, học và học… Sự thành đạt của con em chúng ta trong học vấn được xem như là sự thành công và niềm hảnh diện chung của cha mẹ Viêt Nam trên miền đất tự do.
Thây xác trưng ra đó / Còn chưa đủ thối inh? / Mua chi thêm bầy ngựa / Cứt vung cả Ba Đình! - Trần Bang
Tôi sinh ra trong một cái xóm rất nghèo, và (tất nhiên) rất đông trẻ nhỏ. Cùng lứa với tôi, có cả tá nhi đồng mà tên gọi đều bắt đầu bằng chữ út: Út lé, Út lác, Út lồi, Út lùn, Út hô, Út còi, Út ghẻ, Út mập, Út sún, Út sứt, Út méo, Út hô, Út đen, Út ruồi, Út xẹo, Út trọc … Cứ theo cách thấy mặt đặt tên như vậy, người ta có thể nhận dạng và biết được thứ tự của đứa bé trong gia đình mà khỏi phải giới thiệu (lôi thôi) kiểu cách, theo kiểu Âu Tây: – Còn đây là thằng út, nó tên là Út rỗ. Vùa lọt lòng thì cháu rơi ngay vào một cái … thùng đinh! Riêng trường hợp của tôi thì hơi (bị) khác. Tôi tên Út khùng. Lý do: khi mới chập chững biết đi, tôi té giếng. Khi tìm ra con, nắm tóc kéo lên, thấy thằng nhỏ mặt mày tím ngắt, chân tay xụi lơ, bụng chương xình, má tôi chỉ kêu lên được một tiếng “rồi” và lăn ra bất tỉnh.
Chúng ta thấy gì qua những cuộc biểu tình và bạo lực tiếp theo sau cái chết của người thanh niên da đen George Floyd bị người cảnh sát da trắng Derek Chavin dùng đầu gối đè cổ nghẹt thở chiều ngày 25-5-2020 tại thành phố Minneapolis, bang Minnesota? Hàng trăm cánh sát dã chiến với trang bị tác chiến và măt nạ chống khói độc đối đầu với hàng ngàn người biểu tình đòi công lý cho George Floyd và đòi được sống bình đẳng với người Mỹ da trắng. Đó là cuộc đấu tranh chính đáng chống lại áp bức, chống lại bất công của một xã hội đa chủng đa văn hóa như nước Mỹ.
Có vài kinh điển đã nói đến chiến tranh và dùng bạo lực để trừng phạt, nhưng tìm cách biến đổi quan điểm thông thường của thế gian là bạo lực cũng đôi khi cần thiết bằng cách là đối thoại với một lý tưởng không dùng bạo lực. Về điểm này, Phật có nói đến mình như một người xuất thân từ giai cấp lãnh chuá. Trong hai bài pháp ngắn, Phật có bình luận về hai cuộc chiến xảy ra khi ác vương A Xà Thế, Ajàtasattu, tấn công vào lãnh thỗ của chú mình là vua Ba Tư Nặc, Pasenadi, cũng là một tín đồ của Ngài, và được coi như là người luôn làm việc thiện. Trong cuộc chiến đấu tiên, vua Pasenadi bị đánh bại và rút lui. Đức Phật có suy nghĩ về sự bất hạnh này và ngài nói rằng: “Chiến thắng gieo thêm hận thù, người bại trận sống trong đau khổ. Hạnh phúc thay cho một đời sống an hoà, từ bỏ đưọc mọi chuyện thắng thua. Điều này cho thấy rõ rằng sự chinh phục đem lại bi đát cho người thua cuộc mà chỉ đưa tới thù hận và dường như chỉ muốn chinh phục lại kẻ chinh phục.”
Chiều ngày 29/5 sau phiên xử phúc thẩm, một người dân ở xã Bình Phước, ông Lương Hữu Phước, đã trở lại toà án và nhảy từ lầu hai của toà để tự sát. Hình ảnh ông nằm chết, co quắp ngay trước sân toà nói lên nỗi tuyệt vọng, sự cô đơn cùng cực của người dân VN trước các phán quyết của toà án. Tôi chạnh nhớ đến câu nói của thầy giáo Nguyễn Năng Tĩnh trong phiên phúc thẩm của anh: “một lũ bất nhân đã làm ra phiên toà bất công”.
Ôi, tưởng gì chớ tật xấu của đàn ông (nói chung) và đàn ông Việt Nam (nói riêng) thì e đám đàn bà phải càm ràm cho tới… chết – hay ngược lại. Không mắc mớ gì mà tôi lại xía vô mấy chuyện lằng nhằng (và bà rằn) cỡ đó. Nhưng riêng hai chữ “cái làn” trong câu nói (“Lắm đấng ông chồng vui vẻ xách làn đi chợ…”) của Phạm Thị Hoài thì khiến tôi bần thần, cả buổi! Năm 1954, cái làn (cùng nhiều cái khác: cái bàn là, cái bát, cái cốc, cái ô, cái môi, cái thìa…) đã theo chân mẹ tôi di cư từ Bắc vào Nam. Cuộc chung sống giữa cái bàn là với cái bàn ủi, cái bát với cái chén, cái cốc với cái ly, cái ô với cái dù, cái môi với cái vá, cái thìa với cái muỗm… tuy không toàn hảo nhưng (tương đối) thuận thảo và tốt đẹp.
Hoa phượng được Nhất Tuấn gọi là hoa học trò vì thuở đó hầu như ngôi trường nào cũng trồng cây phượng trong sân trường. Khi phượng đơm hoa báo hiệu cho mùa Hè cũng là thời điểm chia tay sau niên học. Để lưu niệm, nữ sinh đóng tập Lưu Bút giấy pelure xen kẽ các sắc màu, trông thật nhã, ghi cảm nghĩ cho nhau… Ở lớp Đệ Tứ, không còn học chung nhau vì lên lớp Đệ Tam theo ban A, B, C và lớp Đệ Nhất là thời điểm chia tay vĩnh viễn, tập Lưu Bút dày hơn, chia sẻ, tâm tình… của tuổi học trò. Hầu như nam sinh không có Lưu Bút, chỉ được xía phần, dù có tinh nghịch nhưng phải viết đứng đắn, lịch sự.
Trong chị Thanh chỉ có một tấm lòng, chứ tuyệt nhiên không có “những bức tường lòng” phân cách Bắc/Trung/Nam – như rất nhiều người Việt khác. Tình cảm của chị tinh khiết, trong veo, và tươi mát tựa như dòng nước của một con suối nhỏ – róc rách, len lách – khắp mọi miền của tổ quốc thân yêu. Bởi thế, dù không biết chính xác chị được chôn cất nơi nao tôi vẫn tin rằng ở bất cứ đâu thì đất nước này cũng đều hân hoan ấp ủ hình hài của người thơ đa cảm, tài hoa, và chuân truyên nhất của dân tộc. Vĩnh biệt Nguyễn Thị Hoài Thanh. Em mong chị mãi mãi được an nghỉ trong an lành và thanh thản!


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.