Hôm nay,  

Con Trai, Con Gái

21/02/201500:00:00(Xem: 5226)
“Con trai, con gái” là chuyện ngắn phóng thuật từ chuyện ngắn “Boys and Girls” của bà Alice Munro. Bà Munro, 82 tuổi, người Canada được giải Nobel văn chương năm 2013 do toàn bộ công trình viết văn của bà gồm 14 tuyển tập chuyện ngắn. Bà được xem là một nhà văn đương thời có biệt tài về chuyện ngắn. “Boys and Girls ” là một trong hằng trăm chuyện ngắn của bà. ** Trần Bình Nam **

*

Cha tôi nuôi chồn. Những con chồn bạch kim nuôi trong những dãy chuồng gỗ. Đến mùa thu hay đầu mùa đông khi lông chồn đủ dày cha tôi giết chồn lột da bán cho công ty Hudson hoặc các thương gia buôn da chồn ở Montréal. Sau cánh cửa nhà bếp cha tôi treo đầy lịch quảng cáo của công ty Hudson và của các thương vụ này. Vào tiết thu đông bầu trời Canada xanh ngắt, xa xa bên kia bờ một con sông vắng bóng thuyền là rừng thông phủ một màu đen ảm đạm.

Vài tuần trước trước lễ Giáng sinh, sau bữa cơm chiều hôm nào cha tôi cũng làm việc dưới “basement” điện thắp sáng choang. Có khi ông Henry Bailey, một người giúp việc cùng làm với cha tôi. Em tôi, Laird và tôi thường ngồi nơi bậc cấp dẫn xuống “basement” xem cha tôi làm việc. Cha tôi lột và lật da chồn trong ra ngoài trông trắng hếu. Thân chồn còn lại nhỏ chỉ bằng một con chuột đồng không còn vẻ dữ tợn như chồn còn sống được bỏ vào một bị lác sẽ được đem chôn. Có một lần ông Henry mang bao chồn đi chôn, qua chỗ chúng tôi ngồi ông huơ huơ cái bị thịt trước mặt tôi và nói đùa “quà sinh nhật của cô đây.” Mẹ tôi không thích kiểu đùa đó. Mẹ tôi không thích cha tôi giết chồn trong nhà. Lột da xong cha tôi trải da trên một tấm ván cẩn thận bào sạch mỡ và máu. Trong nhà phảng phất mùi thịt. Mẹ tôi không thích mùi thịt tươi, nhưng với tôi là một mùi quen thuộc hằng năm chẳng khác gì mùi cam mùa hè hay mùi lá thông mùa xuân.

Henry Bailey bị bệnh suyễn. Đang làm việc nhiều khi ông ho mặt đỏ tía, nước mắt ứa ra không ngăn được. Những lúc đó ông không ngần ngại khạc đờm vào lò sưởi đốt bằng củi. Thỉnh thoảng thấy khuya cha tôi bảo chúng tôi đi ngủ. Mùa đông bên ngoài tối om, gió thổi rào rạt, mái nhà đầy tuyết đông cứng phủ xuống như những ngón tay phù thủy nhưng không làm chúng tôi sợ bằng căn phòng nơi chị em chúng tôi ngủ.

Phòng ngủ của chúng tôi ở ngay trên basement và rất luộm thuộm. Một ống khói hình vuông bằng gạch bên tường. Giữa phòng là đầu cầu thang đi xuống basement nơi cha tôi làm việc. Đối diện bên kia là một cuộn linoleum to bự dựng đứng, và những thứ không còn dùng nữa: một cái xe bằng mây, một cái rá đan bằng thân dương xỉ khô, một cái ché Tàu và một tấm hình vẽ trận thảm bại Bataclava trông rất buồn. Khi Laird lớn hơn một chút tôi giải thích gốc gác các vật lỉnh kỉnh đó và dọa Laird rằng có lần một tù nhân vượt ngục đã leo qua cửa sổ lẻn vào núp sau cuộn linoleum.

Chị em tôi có một quy tắc an toàn. Vào giờ đi ngủ, khi còn đèn chúng tôi không ra khỏi căn phòng. Và sau khi tắt đèn thì không ra khỏi chiếc giường ngủ. Trong bóng tối chúng tôi hát để bớt sợ. Laird luôn luôn hát “Jingle Bells” dù vào mùa Giáng sinh hay không. Tôi hát “Danny Boys.” Nghe giọng mình hát vang trong bóng tối tôi yên tâm.

Hát một lúc, Laird ngủ say. Và bây giờ là thế giới của riêng tôi. Cuộn chặt mình dưới tấm chăn tôi tự thuật lại câu chuyện đêm nào tôi cũng lượt qua như một cuốn phim. Tôi tưởng tượng lớn lên, người chung quanh nhận ra sự hiện diện của tôi, một cô gái can đảm, bạo dạn và biết hy sinh cho người khác. Tôi cứu người bị bom chôn trong đống gạch. Tôi bắn chết hai con chó sói đến rình sau lưng trường trong khi cô giáo sợ đứng núp sau lưng. Tôi tưởng tượng cỡi ngựa chạy khắp xóm để mọi người có dịp cám ơn hành động anh hùng của tôi. Cỡi ngựa và bắn súng là đề tài quen thuộc trong câu chuyện của tôi mặc dù trên thực tế tôi chỉ leo lên lưng ngựa hai lần. Một lần quên lót yên đít còn đau, và một lần leo lên chưa kịp thúc, ngựa đã quật tôi xuống tuyết. Bắn súng thì tôi có tập nhưng chẳng bao giờ bắn trúng mấy cái lon treo trên hàng rào với tay cũng tới!

Trại chồn của cha tôi gồm nhiều dãy chuồng do tự tay ông đóng chạy dọc theo lối vào cách nhau bởi những đường cỏ, nhìn vào như một cái thành thời trung cổ. Bước qua cái cổng ban đêm đóng chặt, đi qua lối cỏ hai bên là những chiếc chuồng hình hộp dài, mỗi chuồng dành cho một chú chồn. Ở đầu mỗi chuồng có ổ sinh đẻ và chỗ ngủ ban đêm. Ban ngày chồn có thể chạy tới chạy lui trong chuồng. Dọc theo chiều dài của chuồng có một sợi dây thép cha tôi treo dĩa để thức ăn và nước uống, có chỗ luồn tay vào để rửa và thay thức ăn mới.

Vật liệu làm chuồng hầu hết do cha tôi dùng bất cứ gì ông có được. Hộp thiết cũ cắt ra để làm dĩa thức ăn, gỗ lót chuồng là bất cứ loại ván nào trong nhà không dùng cha tôi cưa cắt ra. Cha tôi làm như Robinson Crusoe ở hoang đảo! Mùa hè tôi giúp cha tôi châm nước uống cho chồn mỗi ngày hai lần, sáng và chiều.

Cha tôi đặt cho mỗi chú chồn một cái tên và viết tên trên một tấm thiếc gắn nơi cửa chuồng. Sinh ra chồn con phải chờ một năm, sau khi đủ lớn để có thể lột da hay sinh đẻ mới được đặt tên. Cha tôi đặt tên Prince, Bob, Wally và Betty. Tôi đặt tên Star, Turk, Maureen hay Diana. Laird đặt tên có xuất xứ: Maude là tên một cô bé gái từng giúp việc trong nhà, Harold, tên một bạn trai ở trường. Và có một chú được đặt tên Mexico thì Laird không giải thích tại sao.

Đặt tên cho các chú chồn không có nghĩa chúng tôi được chơi với chúng. Chỉ có cha tôi mới được thò tay vào chuồng riêng của chồn khi cần, và cha tôi đã bị chồn cắn máu nhiễm độc mấy lần. Khi tôi đứng ngoài chuồng đổ nước uống cho chúng, chúng chạy tới chạy lui vừa rình rập vừa đề phòng, đôi mắt vàng rực chòng chọc nhìn như muốn cắn. Ban đêm thỉnh thoảng chúng cùng hú lên như có hẹn.

Ngoài khuôn mặt và đôi mắt ít thiện cảm, thân chồn có bộ lông mềm mại di chuyển nhẹ nhàng uyển chuyển, cái đuôi ngoe nguẩy một cách quý phái.

Mùa hè tôi giúp cha tôi cắt cỏ trên những luống đường trong trại chồn. Cha tôi cắt cỏ bằng một chiếc liềm lớn cán dài, cào lại thành đống rồi phủ lên chuồng cho mát để cho lông chồn không biến thành màu nâu vì nắng. Cha tôi ít nói chuyện này chuyện khác với tôi ngoại trừ những gì liên quan đến công việc đang làm. Mẹ tôi thì khác, khi vui bà nói với tôi trăm thứ chuyện. Nào chuyện về tên con chó bà nuôi hồi nhỏ, tên của những người bạn trai thời thơ ấu, chuyện màu sắc những chiếc áo đã dùng. Tôi không dám hỏi cha tôi ông nghĩ gì về thời trai trẻ như chuyện của mẹ, nhưng tôi rất tự hào làm việc dưới sự chỉ dẫn của ông.

Một hôm cha tôi giới thiệu tôi với người mang thực phẩm tới giao hàng:

“Người giúp việc không thể thiếu của tôi kìa” làm tôi vừa tự hào vừa sung sướng. Nguời giao hàng nói với cha tôi:

“Cô ta chỉ là một cô gái nhỏ thôi mà!”

Cỏ cắt xong, trời bắt đầu vào Thu. Chiều chiều bước qua những lối cỏ đã cắt ngắn để châm nước cho chồn tôi có thể thấy những ráng mây đỏ nơi chân trời. Và sau khi tôi đẩy thùng nước ra khỏi cổng mang bỏ vào kho vật liệu thì trời vừa tối. Một buổi tối tôi thấy cha và mẹ tôi đứng trước cửa kho vật liệu thì thầm nói chuyện với nhau, thỉnh thoảng liếc mắt nhìn tôi. Cha tôi vừa ở tiệm bán thịt về, áo choàng còn dính máu, trên tay cầm mấy cân thịt.

Tôi ngạc nhiên vì mẹ tôi thường làm việc trong nhà bếp, ít ra ngoài trừ khi đi phơi áo quần hay đào khoai tây. Mẹ tôi chân trần nổi lên từng cục u vì ít ra mặt trời, áo choàng rửa bát chén dính nước còn choàng trước ngực. Bà cột tóc bằng một chiếc khăn. Mẹ tôi nói bà không có thì giờ trang điểm, cột vậy cho tiện.

Mùa lạnh sắp tới, trong nhà đầy những rổ đào, bưởi và lê mua ở chợ về, những rá hành, cà chua và dưa leo lấy trong vườn chờ làm mứt và dưa chua. Mẹ tôi làm việc suốt ngày bên lò lửa trong nhà bếp. Bà giao tôi việc gọt đào, nhúng vào nước sôi, và thái hành. Mắt tôi cay xè. Thái xong, tôi chạy nhanh ra ngoài hy vọng mẹ không kịp sai làm việc khác. Tôi không thích ngồi làm việc trong nhà bếp vừa nóng vừa tù túng. Tôi thích giúp việc cha tôi hơn. Vào mùa này mẹ tôi bận không có thì giờ nói chuyện nhiều với tôi ngay cả những chuyện mẹ tôi rất thích như chuyện bà nhảy dạ vũ vào đêm mãn khóa tại trường Sư Phạm hơn một chục năm về trước.

Từ nhà kho tôi nghe mẹ nói với cha tôi: “Chờ thằng Laird lớn chút nữa để giúp ông.” Tôi không nghe cha tôi trả lời, nhưng hình như cha tôi đồng ý.

Tôi tự hỏi tại sao mẹ nhắc đến Laird. Nó còn nhỏ chưa làm được việc gì cả. Suốt ngày chơi, hết xích đu, thì đi bơi, hết bơi thì đi bắt châu chấu. Nó chỉ đến gần tôi khi tôi hết việc làm rảnh để có thể chơi với nó.

“Khi đó tôi có thể nhờ nó nhiều việc ở trong nhà,” và bà nói tiếp, “Ỷ phải giúp ông, nhờ làm gì trong nhà bếp hễ tôi quay lưng là nó biến mất, như thể nó không phải là con gái trong nhà.”

Tôi ngồi một góc trong nhà kho, không muốn nghe những gì mẹ tôi nói. Mẹ tôi dễ tính hơn cha tôi và ai nói gì cũng nghe, nhưng tôi không hiểu mẹ tôi nói vậy là ý gì. Mẹ tôi thương tôi lắm. Bà có thể thức suốt đêm may chiếc áo theo kiểu tôi thích để dùng trong ngày khai giảng sắp tới, nhưng bà cũng có những nhận xét bất lợi cho tôi. Mẹ tôi muốn thuyết phục cha tôi để tôi giúp việc trong nhà mặc dù mẹ tôi biết tôi không thích việc bếp núc. Tôi nghĩ mẹ tôi làm vậy để tỏ với cha tôi bà cũng có quyền hành trong nhà. Tôi không nghĩ mẹ tôi cô đơn vì có con gái mà không làm việc với bà. Ngồi im tôi đá nhẹ và đều đều vào bao thực phẩm dành cho chồn trước mắt cho đỡ chán chờ mẹ tôi đi vào nhà bếp.

Tôi không nghĩ cha tôi quan tâm nhiều đến ý kiến của mẹ tôi. Laird còn nhỏ và ham chơi không làm gì được. Ai tin Laird có thể kéo thùng nước từ trại chồn vào nhà kho mà không té. Ai tưởng tượng được Laird có đủ kiên nhẫn lau chùi các dĩa đựng thức ăn của chồn? Mẹ tôi hoàn toàn không biết gì ngoài cái nhà bếp của bà.

Tôi chưa nói chuyện chồn ăn gì. Nhìn cái áo choàng dính máu của cha tôi mới nhớ. Chúng ăn thịt ngựa tươi. Vào thời gian đó nông dân còn nuôi ngựa. Khi có một con ngựa già hay bị thương không làm việc được nữa, họ gọi cha tôi. Cha tôi và Henry lái xe đến bắn chết xẻ thịt mang về với giá từ 5 đến 12 đồng một con. Nếu ở nhà còn thịt thì cha tôi dùng xe truck chở ngựa về nhốt vào chuồng năm ba ngày hay một tuần khi nào cần thịt thì giết.

Mùa Đông năm tôi 11 tuổi, trong chuồng ngựa nhà tôi có hai con ngựa. Tôi đặt tên Mack và Flora. Mack là ngựa cỡi, hiền lành, lông đen tuyền. Flora là một con ngựa cái kéo xe màu nâu và khó tính. Một buổi sáng thức dậy tôi nghe mẹ tôi nói chuyện với cha trước cửa nhà kho, vẫn với nội dung xa gần liên quan đến tôi. Tôi cảm thấy khó chịu khi nhận ra rằng những người chung quanh tôi, ngay cả cha mẹ có những ý nghĩ phân biệt con trai và con gái. Danh từ “con gái” từ nhỏ đối với tôi là một danh từ vô can như một người, một đứa bé thì ra không phải như vậy. Con gái lớn lên khác con trai. Và khi cha hay mẹ tôi nhắc đến tôi ông bà tiếc tôi là con gái, đôi khi có chút châm biếm làm tôi rất buồn. Một hôm tôi và Laird đánh lộn nhau. Tôi thường áp đảo nó, nhưng lần này tôi ráng hết sức mới hơn nó. Có lúc nó bẻ quặt tay tôi tưởng chừng không gỡ ra được. Henry cười và nói: “Cô phải coi chừng, không bắt nạt Laird được mãi đâu. Nó lớn rồi.” Tôi thầm nghĩ “Nó lớn thì tôi cũng lớn chứ bộ!”

Bà nội tôi đến thăm ở lại mấy hôm. Tôi nghe loáng thoáng những nhận xét như “con gái mà đóng cửa ầm ầm!” hay “con gái sao ngồi không để hai đầu gối sát vào nhau.” Nhưng khó chịu nhất là nhiều khi tôi hỏi cái gì đó, người lớn trả lời tỉnh bơ, “đó không phải chuyện của con gái.” Phản ứng bất mãn của tôi là cứ đóng cửa mạnh, cứ ngồi theo cách nào tôi muốn, cứ hỏi những câu hỏi tôi muốn hỏi để chứng tỏ tôi là một người tự do.

Mùa Xuân đến, tuyết tan dần. Hằng ngày cha tôi cho ngựa ra sân chuồng có hàng rào bao quanh. Mack thường cọ cổ nơi hàng rào cho đã ngứa, trong khi Flora đi quanh sân hiên ngang như nhớ lại những ngày kéo xe chạy tung tăng trên đường phố.

Một sáng Thứ Bảy, tôi thấy cửa chuồng ngựa mở toang, ánh sáng ban mai và không khí mát rượi chan hòa trong chuồng ngựa. Henry đang lật xem các tấm lịch ông để dành mỗi năm một tấm trên một kệ gỗ khuất trong chuồng ngựa. Thấy Laird bước vào chuồng, Henry bụm một nắm thóc đổ vào hai bàn tay của Laird và nói: “đem thóc đến cho Mack ăn.”

Mack chậm rãi nhai, hàm răng đã hư day qua day lại để tìm vị trí nghiến thóc. Henry nói, “Tội nghiệp Mack. Răng hư là hết.” Tôi hỏi, “Hôm nay ông giết Mack hả ?”

Henry không trả lời. Ông hát một điệu hát buồn. Mack đang liếm mấy hạt thóc cuối cùng trên đôi bàn tay của Laird.

Tôi chưa thấy bắn ngựa như thế nào, nhưng do một tình cờ tôi biết cha tôi và Henry bắn ngựa ở đâu. Một hôm đi chơi với Laird nơi cánh đồng gần nhà không xa chuồng ngựa bao nhiêu tôi thấy một đống ruột ngựa chưa chôn. Đống ruột đen như một con trăn cuộn mình ngủ say giữa mùa Đông. Tôi nghĩ nếu núp trong nhà kho chứa rơm nhìn qua khe hở tôi có thể thấy cha tôi và Henry làm gì. Tôi không thích việc giết chóc, nhưng tò mò nghĩ nếu đó là việc thường xẩy ra quanh mình, sao không xem cho biết!

Cha tôi mang súng bước khỏi nhà. Thấy tôi ông hỏi

“Con làm gì quanh quẩn ở đây?”

Tôi trả lời: “Dạ không làm gì cả”

“Vào nhà mà chơi.” Ông bảo

Ông ta vào chuồng ngựa, bảo Laird ra ngoài.

Thấy Laird ra tôi nói, “mày có muốn xem cha và Henry bắn ngựa không? Không chờ Laird trả lời, tôi kéo nó đi lẻn vào nhà kho để rơm. Tôi dặn Laird: “Đừng gây tiếng động, nếu không cha biết chị em mình lẻn vào đây.”

Từ nhà kho tôi nghe cha tôi nói chuyện với Henry, rồi tiếng bước chân chậm chạp của Mack ra khỏi chuồng.

Nền nhà kho đầy rơm và lạnh. Những tia sáng vàng rực len vào nhà kho qua các khe hở gần mái kho. Một thanh gỗ lớn gối trên nhiều cột gỗ chạy quanh kho ở độ cao chừng hơn một thước. Tôi dồn rơm lại đủ cao leo lên thanh gỗ rồi kéo Laird lên theo. Tôi bò theo thanh gỗ cho đến lúc tìm được kẽ hở có thể quan sát bên ngoài. Tôi thấy được một góc kho rơm, cánh cổng mở ra đồng và một phần cánh đồng. Loay hoay mãi Laird chưa tìm ra khe hở nào càu nhàu. Tôi chỉ chỗ hở cho Laird và dặn đừng làm ồn. Cha nghe tiếng là hỏng hết!

Tôi thấy cha tôi mang súng đi trước trên một lối nhỏ cạnh một bờ rào. Henry cầm dây dẫn Mack theo sau. Bỏ dây ra, Henry vấn thuốc lá cho cha tôi và ông ta mỗi người một điếu. Được tự do, Mack gặm những ngọn cỏ ươn ướt còn sót lại bên bờ rào. Cha tôi mở cửa cánh đồng bước vào. Henry dẫn Mack đến giữa cánh đồng nơi khoảng đất trống. Hai người nói nhau những gì tôi không nghe rõ. Mack tìm cỏ ăn, nhưng ở chỗ trống trải đó không còn gì cả. Cha tôi bước xa ra một khoảng cách vừa tầm súng. Henry nới dần dây và đi xa Mack, tay vẫn giữ dây. Cha tôi nâng tầm súng. Mack ngẫng đầu chờ đợi. Cha tôi nổ súng.

Mack không khuỵa xuống ngay. Lằn đạn mạnh làm xoay mình nó, trước khi nó ngã ngang xuống bên sườn, bốn chân còn động đậy chới với giữa khoảng không. Tôi nghe Henry cười như ý nói, “chết rồi còn dọa sao?” Khi cha tôi nổ súng, Laird ngạc nhiên kêu thành tiếng: “Mack chưa chết! Mack chưa chết!” Nhưng chân Mack ngưng cử động, các bắp thịt giật giật rồi bất động.

Cha tôi và Henry đến gần quan sát xem Mack chết thật chưa. Hai người cúi nhìn vết đạn vào đầu và tôi thấy máu của Mack chảy ra trên nền đất.

“Thôi đi về. Bây giờ chỉ còn việc lột da và xẻ thịt” Vừa nói tôi vừa nhảy xuống đống rơm dưới chân, và bằng giọng bà chị tôi nói với Laird: “Mày đã thấy bắn một con ngựa như thế nào rồi đấy nhé” như thể tôi đã thấy nhiều lần. Không trả lời, Laird im lặng nhảy xuống. Thái độ ngoan ngoãn của Laird làm tôi nhớ lại hồi hắn còn nhỏ có một lần tôi dẫn nó vào kho rơm bắt thang bảo nó leo lên thanh gỗ làm dàn nhà kho cao nhất. Và khi không giúp nó trụt xuống được tôi hoảng hốt đi tìm cha tôi nói, “thằng Laird leo thang lên gác thượng nhà kho.” Cha tôi bình tĩnh vào nhà kho bảo nó đừng nhúc nhích và ông leo lên bậc thang ẵm nó xuống. Mẹ tôi sợ đứng tựa mình nơi chiếc thang chỉ chực khóc. Cha tôi mắng tôi sao không coi em để nó leo như vậy. Tôi không biết nên cười hay khóc. Laird thì còn quá nhỏ để kể lại sự thật với cha mẹ tôi.

Tôi nhìn Laird da mặt hơi tái. Nó có vẻ suy nghĩ. Tôi nói “mày không mét với cha chị em mình đã lén xem bắn ngựa chứ ?”

Laird trả lời “Không” như không có gì quan trọng cả.

“Mầy hứa chứ?”Tôi nói

“Ừ thì hứa” Laird trả lời

Để làm dịu cơn xúc động của Laird tôi lấy tiền để dành chiều hôm đó rủ Laird đi xem tuồng do Judy và Canova diễn và cả hai chị em cười thoải mái.

Hai tuần sau tôi biết Flora sắp bị giết thịt. Đêm trước tôi nghe mẹ tôi hỏi cha tôi khi nào thì đem rơm lót chuồng ngựa ra phơi được. Cha tôi nói “Ngày mốt thì chỉ còn một con bò trong chuồng, và mình có thể thả cho nó ăn cỏ ngoài trời một tuần.”

Tôi không có ý định lén xem bắn Flora. Tôi không suy nghĩ nhiều sau khi thấy Mack bị giết. Nhưng đôi khi ở trường học, hay đứng trước gương chải tóc chuẩn bị đi học, suy nghĩ vẩn vơ, hình ảnh Mack ngã xuống bỗng hiện ra. Tôi thấy cha tôi bắn vào đầu Mack một cách dễ dàng quá, và tiếng cười vô tâm của Henry khi thấy Mack giật gân chân trước khi chết. Tôi không thấy sợ hay thắc mắc cha tôi sao giết súc vật. Ở đồng quê hằng ngày tôi thấy súc vật bị giết chết và đối với gia đình tôi đó là một cách sinh sống. Nhưng tôi không ngăn được một cảm nghĩ bất an và tự hỏi cha mình có thể chọn cách khác để sinh sống và nuôi nấng chị em mình không.

Hôm đó trời tốt, tôi và Laird được giao việc lượm cành gãy trong vườn vừa bị một gió mạnh mùa đông làm gãy, và tôi có ý dùng các cành cây gãy xếp một cái lều hình nón như lều của người mọi da đỏ để chơi. Tôi bỗng nghe tiếng hí của Flora, rồi tiếng nói lớn của cha tôi và Henry. Tò mò, tôi và Laird cùng chạy băng qua vườn vào sân chuồng ngựa.

Cửa chuồng mở. Henry cầm dây dẫn Flora ra thì Flora tung dây chạy dọc theo chiều dài sân chuồng từ đầu này đến đầu kia về phía hai chị em tôi. Chúng tôi leo qua hàng rào ra ngoài để tránh Flora vừa chạy vừa hí, chân sải dài trông đẹp mắt giống như trong phim cao bồi. Cha tôi và Henry chạy theo sau cố chụp sợi dây Flora kéo lòng thòng theo sau.

Chạy đến cuối sân Flora quay lại lách mình chạy giữa cha tôi và Henry đôi mắt giận dữ rồi nhảy băng qua rào ra ngoài đồng. Cánh đồng của gia đình tôi còn một chiếc cổng nữa dẫn vào xóm. Cổng đó thường đóng nhưng sáng nay Henry mở mang xe truck ra chưa kịp đóng. Nếu Flora vượt qua cổng đó nó sẽ tự do như ngựa hoang. Henry kêu lên: Flora ra đồng rồi! Thấy tôi ở ngoài rào cha tôi bảo: “Con chạy lại đóng chiếc cổng nhanh lên!”

Tôi chạy như bay đến chiếc cổng còn mở, thấy Flora đang phi nước đại chạy tới. Tôi nâng chiếc cửa bằng gỗ khá nặng định khép lại. Cửa khép nửa chừng Flora chạy đến gần hơn tôi thấy đôi mắt Flora trừng trừng nhìn tôi. Tôi có thể đóng cổng kịp không cho Flora chạy ra ngoài, nhưng không biết nghĩ sao thay vì đóng tôi mở rộng cổng ra. Flora chạy vụt qua cổng. Tôi nghe Laird kêu ơi ới, “đóng cổng lại, đóng cổng lại!”mặc dù Laird biết trễ rồi.

Cha tôi và Henry không thấy tôi đã làm gì. Khi cả hai chạy ra đến cổng thì Flora đã chạy ra ngoài xóm và nghĩ là tôi không đóng cổng kịp.

Không để mất thì giờ, cha tôi và Henry lấy súng và dao nhảy lên xe rồ máy chạy đi. Laird chạy theo kêu lên “Cho con đi với”. Cha tôi ngừng xe kéo Laird lên rồi lái xe chạy vào xóm. Tôi đóng cổng rồi vào nhà.

Tôi nghĩ thế nào Laird cũng kể chuyện cho cha tôi biết và không biết cái gì sẽ xảy đến cho tôi. Từ trước đến nay tôi chưa hề làm trái lời cha tôi. Tôi không biết tại sao lần này tôi làm như vậy. Tôi đủ thông minh để biết chạy ra ngoài xóm Flora cũng không thoát. Ngoài xóm không phải là rừng hoang. Trước sau cha tôi cũng bắt được và giết thịt cho chồn ăn để nuôi sống chúng tôi.

Những gì tôi đã làm không thay đổi gì cả ngoại trừ thêm việc cho cha tôi vốn đã quá bận rộn. Và cha tôi sẽ không tin cậy vào tôi nữa. Nhưng tự hỏi mình có hối hận đã mở rộng chiếc cổng cho Flora chạy thoát không, tôi không thấy hối hận. Trong thoáng chốc tôi đã làm một việc hợp với bản năng.

Vào nhà, mẹ tôi hỏi, cái gì mà ngoài đó ầm ĩ vậy. Tôi nói Flora phá cổng chạy thoát ra ngoài xóm. Mẹ tôi nói “Tội nghiệp cha con, lại phải mất công đi lùng bắt nó. Hôm nay chắc cả nhà ăn cơm trễ”. Tôi định nói cho mẹ tôi biết tại sao Flora chạy thoát được ra ngoài, nhưng nghĩ sao tôi thôi, tôi lên phòng ngồi trên giường ngủ, nhớ lại từng chi tiết của hôm nay chờ cha về mẹ tôi kêu xuống ăn cơm.

* *

Laird trở nên nghiêm chỉnh hơn không như thằng bé chỉ biết ham chơi. Tôi thì biết chăm sóc chiếc giường ngủ của tôi hơn. Tôi trải thêm một tấm vải bông lên trên và kê thêm một bàn chải tóc nhỏ và như một bản năng tôi cách dần phần chỗ tôi ngủ với Laird. Đêm đến chúng tôi không cùng hát nữa. Một hôm nghe tôi hát, Laird bảo: “Giọng hát của chị nghe như giọng người lớn không thấy hay nữa.” Tôi vẫn tiếp tục hát hết bài, nhưng hôm sau tôi không hát nữa. Thật ra chúng tôi cũng không cần hát vì không còn sợ bóng đêm.

Và sau khi Laird ngủ say tôi vẫn còn thức nằm tưởng tượng những câu chuyện trong đầu như cũ. Tôi tưởng tượng tôi cứu chó hay mèo khi cháy nhà. Có khi bạn trai cùng lớp hay thầy Campbell cứu tôi. Tôi tưởng tượng mái tóc tôi dài, chải chuốt, mặc áo nhiều màu sắc cái hôm thầy Campbell kéo tôi ra khỏi một ngôi nhà đang sụp. Tôi hồi hộp … và luồng tưởng tượng bỗng nhiên biến mất.

* *

Hôm đó hơn một giờ chiều cha tôi và Henry mới lái xe truck trở về. Một tấm vải lớn che kín phần chở hàng phía sau. Nhìn biết là che đống thịt ngựa. Mẹ tôi hâm nóng thức ăn đã làm sẵn và kêu mọi người vào bàn ăn. Cha tôi và Henry đã thay bộ đồ dính máu bằng bộ đồ làm việc đang rửa mặt và chải tóc. Laird đưa cánh tay áo còn dính máu khoe với mẹ “Ba đã bắn chết Flora và con giúp Ba và ông Henry xẻ ra làm 50 miếng thịt.” Mẹ tôi nói “Thôi đừng nói chuyện đó nữa. Con thay áo quần rửa ráy để ăn cơm.”

Cả nhà ngồi vào bàn chuyền tay nhau dĩa xà lách mới hâm còn nóng. Laird ngồi đối diện với tôi và nói tỉnh bơ: “Hôm nay Flora sổng chuồng là lỗi của chị Jane.”

Cha tôi hỏi “Con nói cái gì?”

Laird trả lời: “Jane có thể đóng cổng khi cha bảo thì chị lại kéo rộng cổng ra cho Flora chạy ra ngoài”

“Đúng vậy sao?” Cha tôi ngạc nhiên hỏi

Cả mấy cặp mắt nhìn vào tôi chờ câu trả lời. Tôi im lặng gật đầu, cố nuốt trôi miếng bánh mì còn trong miệng, nước mắt trào ra. Tôi bỏ chiếc nỉa đang cầm trên tay xuống chờ cha tôi đuổi ra khỏi bàn ăn.

Nhưng không. Không ai nói gì cả. Chỉ có Laird nói “Jane khóc kìa!”

Cha tôi nói, “Thôi bỏ qua chuyện đó đi!”. Ngừng một chút cha tôi nói như vừa để tha thứ tôi vừa xác định nguyên nhân: “Dù sao hắn chỉ là một đứa con gái!”

Trong thâm tâm tôi không phản đối nhận xét của cha. Biết đâu đúng là vậy./.

Trần Bình Nam thuật

Feb. 20, 2015

[email protected]

www.tranbinhnam.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.