Hôm nay,  

Xem “Nước 2030” Nghĩ Về Phim Việt

3/28/201500:00:00(View: 5931)

Trong những ngày qua, vài rạp tại vùng Vịnh San Francisco có chiếu phim do những đạo diễn gốc Việt từ Mỹ về Việt Nam quay và sản xuất, đó là phim “Nước 2030” của Nguyễn-Võ Nghiêm Minh, “Đoạt hồn” (Hollow) của Hàm Trần.

Cuối tuần này, một phim khác của Hàm Trần là “Âm mưu giầy gót nhọn” (How to Fight in Six Inch Heels) sẽ được công ty phát hành Wave Releasing tung ra chiếu tại một số tiểu bang có đông người Việt ở Mỹ. Phim này đoạt giải Cánh Diều vàng 2014 cho vai nữ diễn viên xuất sắc là Kathy Uyên và đã được chiếu trong nước vào cuối năm 2013 với số vé bán kỷ lục.

blank
Đạo diễn Nguyễn-Võ Nghiêm Minh, bên phải, và nhà quay phim Bảo Nguyễn, đứng sau, gặp gỡ khán giả sau buổi chiếu ở Đại học Berkeley hôm 15/3/15. (ảnh Bùi Văn Phú)

Riêng tại San Jose, phim sẽ chiếu tại rạp AMC trong khu thương mại Eastridge và chiều Chủ Nhật 29/3 sẽ có buổi gặp gỡ với đạo diễn và các diễn viên tại rạp.

Vào trung tuần tháng tới có Viet Film Fest lần thứ 8 do Hội Văn học Nghệ thuật Việt Mỹ (VAALA) tổ chức tại Little Saigon, nam California. Đây là sinh hoạt phim ảnh lớn nhất của người Việt hải ngoại với vài chục phim ngắn, dài thuộc các thể loại khác nhau được trình chiếu.

Đoạt hồn là một phim kinh dị đã được chiếu trong Liên hoan Phim Mỹ gốc Á (CAAMFest) tại rạp Pacific Film Archive ở Đại học Berkeley vào tối thứ Sáu 13/3. Nước 2030 chiếu tối Chủ Nhật 15/3 và phim này cũng có hai xuất khác tại San Jose, San Francisco. Sau buổi chiếu ở Berkeley, đạo diễn Nguyễn-Võ Nghiêm Minh và nhà quay phim Bảo Nguyễn đã có buổi giao lưu cùng khán giả.

“Nước 2030” là câu chuyện về nguy cơ biến đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng không tốt đối với Việt Nam, nhất là vùng mũi đất Cà Mau mà trong thực tế đang bị nước biển xâm thực. Phim lấy ý từ truyện ngắn “Nước như nước mắt” của nhà văn nữ Nguyễn Ngọc Tư.

Lồng trong phim là chuyện tình tay ba, giữa Giang, một nghiên cứu sinh về thực vật biển từ Sài Gòn và Sáo, cô thiếu nữ địa phương, cùng với Thi, thanh niên cùng quê cũng mê Sáo.

blank
Sáo và Giang trong phim Nước 2030. (ảnh Bùi Văn Phú)

Đây là phim khoa học giả tưởng đưa ra viễn cảnh vào năm 2030 nhiều thành phố ở miền nam Việt Nam sẽ chìm sâu dưới biển nước.

Sau “Mùa len trâu” (Buffalo Boy, 2004) mênh mang cảnh lũ lụt, đạo diễn Nguyễn-Võ Nghiêm Minh lại chọn đề tài liên quan đến nước. Hỏi tại sao thích chọn nước là chủ đề, anh nói, nước chiếm ba phần tư mặt địa cầu, nước là sự sống và cũng có sức tàn phá khủng khiếp đối với quả đất.

Như một khán giả khác đã nhận xét sau khi xem phim, sức mạnh của nước có thể ví như Sơn tinh Thủy tinh trong chuyện cổ dân gian của người Việt.

Đạo diễn hy vọng phim sẽ được dùng vào việc giáo dục để quần chúng quan tâm đến ảnh hưởng môi trường do tác động của biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, vì khó khăn tài chánh nên phim chưa phổ biến tại Việt Nam.

Nếu xin phép để chiếu trong nước, không rõ phim có sẽ bị kiểm duyệt không vì những cảnh hối lộ công an, hay có lời thoại dùng tên Sài Gòn, thay vì tên gọi chính thức là Thành phố Hồ Chí Minh.

“Nước 2030” cũng như một số phim Việt Nam khác, trong đó có “Bao giờ cho đến tháng Mười” (1984) của Đặng Nhật Minh; “Karma” (1986) của Hồ Quang Minh; “Mùi đu đủ xanh” (1993) của Trần Anh Hùng là những phim với nhiều cảnh rất ít lời thoại, chỉ là những hành động chậm rãi hay cử chỉ ẩn dụ để khán giả suy ra tâm lí nhân vật. Đó chỉ là những phút yên lặng để ống kính giữ lâu trên một vật thể, như máu chảy ra đọng lại trong chiếc chén vỡ trong “Nước 2030” hay cảnh ếch trên cành lá trong “Mùi đu đủ xanh”.

Có phải đó là đặc điểm của phim Việt để nói về người Việt Nam với cá tính trầm lắng, nhiều suy tư, ít biểu lộ thẳng qua lời nói, mà nội tâm là những ẩn dụ được đạo diễn đưa vào trong phim.

Không biết những khán giả khác nghĩ sao, riêng tôi, nhiều khi xem phim Việt cảm thấy khó nắm bắt được tâm lý nhân vật và sự yên lặng chậm rãi của phim còn làm mình dễ buồn ngủ.

Được xem khá nhiều phim do đạo diễn Việt hay gốc Việt sản xuất, một số phim đã để lại trong lòng tôi những ấn tượng hay, đẹp vì cốt truyện phản ánh được một góc, có thể chỉ là góc khuất của xã hội, và đẹp vì những góc nhìn và ngoại cảnh đã được nhà quay phim đưa vào ống kính một cách nghệ thuật.

blank
Đạo diễn Nguyễn-Võ Nghiêm Minh tại Đại học Berkeley hôm 15/3/15. (ảnh Bùi Văn Phú)

“Đời cát” (1999) của đạo diễn Nguyễn Thanh Vân là phim hậu chiến tranh Việt Nam với những hệ lụy tình cảm, những kết thúc ngang trái trong đời sống nhân vật chính là Cảnh, một cán bộ tập kết trở về làng sau chiến tranh.

“Áo lụa Hà Đông” (2006) của Lưu Huỳnh là hoàn cảnh nghèo của hai chị em phải chia nhau một chiếc áo dài để đi học, về thân phận của nhiều phụ nữ Việt thời nay.

“Ba mùa” (1999) của Tony Bùi về cuộc sống đương đại ở Việt Nam, với sen tươi cạnh tranh với sen bằng nhựa, với những con người thật thà bên cạnh cuộc sống đầy giả dối đưa đến sự luyến tiếc một quãng đời đẹp nhất là thuở học trò của một thiếu nữ.

Phim “Mùa ổi” (2002) của Đặng Nhật Minh biểu hiện hệ quả của một xã hội thiếu pháp luật phân minh, qua căn nhà của một chủ nhân tiểu tư sản, sau ngày bộ đội cộng sản tiếp quản Thủ đô Hà Nội năm 1954 thì ngôi nhà dần dần bị cán bộ chiếm đoạt. Hệ lụy của sự thiếu cơ sở luật pháp đó còn kéo dài cho đến hôm nay.

Nhiều đạo diễn gốc Việt đã từ hải ngoại về trong nước làm phim. Sớm nhất là Hồ Quang Minh từ Thụy Sĩ với “Karma” vào năm 1986. Rồi Trần Anh Hùng từ Pháp với “Xích lô”, “Mùa hè chiều thẳng đứng”. Từ Mỹ là Tony Bùi với “Ba mùa”, Lưu Huỳnh với “Áo lụa Hà Đông”, Nguyễn-Võ Nghiêm Minh với “Mùa len trâu”.

Gần đây nhiều đạo diễn trẻ như Victor Vũ, Hàm Trần, Charlie Nguyễn, Johnny Trí Nguyễn cũng từ Mỹ về và đã cho ra đời cả chục tác phẩm như “Dòng máu anh hùng”, “Giao lộ định mệnh”, “Quả tìm máu”, “Bụi đời Chợ Lớn”, “Âm mưu giầy gót nhọn” v.v…

Trong số những phim của đạo diễn Việt từ nước ngoài, vài phim sau khi làm xong đã không được nhà nước cho chiếu là “Xích lô” của Trần Anh Hùng, một phim được khá nhiều giải thưởng quốc tế, và mới nhất là “Bụi đời Chợ Lớn” của Charlie Nguyễn và Johnny Trí Nguyễn. Hai phim này bị cấm vì cơ quan chức năng cho rằng có nội dung mang nhiều hành động bạo lực và đưa lên những hình ảnh xấu của xã hội Việt Nam.

Với nhiều phim được đạo diễn gốc Việt từ hải ngoại về quay trong nước trong một thập niên qua cho thấy nền điện ảnh Việt Nam có triển vọng đi lên.

Tuy nhiên, những nhà làm phim người Việt, cả trong lẫn ngoài nước, vẫn chưa có những tác phẩm thu hút khán giả quốc tế. Đề tài liên quan đến chính trị, chiến tranh ở Việt Nam cùng hệ lụy đã được nhiều đạo diễn người ngoại quốc chọn để khai thác qua các phim như “Born on 4th of July”, “Coming Home”, “Platoon”, “LIndochine”, “Người tình”, “We were Soldiers”, là những phim thu hút đông khán giả.

Vì chưa có người tài giỏi trong lĩnh vực điện ảnh, hay vì chính sách kiểm duyệt đương thời, những nhà làm phim người Việt chưa thực sự được tự do chọn đề tài, nên các chủ đề của phim Việt vẫn còn giới hạn nên chưa tạo được sự chú ý đối với khán giả toàn cầu?
© 2015 Buivanphu.wordpress.com

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
Trong bài phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York hôm 23 tháng 9 năm 2025, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nói rằng, “Biến đổi khí hậu, bất kể điều gì xảy ra, các bạn đã bị cuốn hút vào đó rồi. Không còn việc hâm nóng toàn cầu nữa, không còn chuyện toàn cầu lạnh cóng nữa. Tất cả những tiên đoán này được thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức khác, thường là những lý do tồi và đều sai lầm. Chúng được tiên đoán bởi những kẻ ngu mà dĩ nhiên là số phận của đất nước họ và nếu tiếp tục thì những quốc gia đó không có cơ hội để thành công. Nếu các bạn không tránh xa khỏi trò lừa đảo xanh này thì đất nước của các bạn sẽ thất bại.” Đó là lời chứng rõ ràng được đưa ra trước cộng đồng quốc tế về quan điểm và hành động của chính phủ Trump chống lại các giá trị khoa học mà nhân loại đã, đang, và sẽ tiếp tục giữ gìn và thực hiện để làm cho cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ và hạnh phúc hơn.
Năm xưa, khi Benjamin Franklin rời khỏi Hội nghị Lập hiến năm 1787, một người phụ nữ hỏi ông: “Ngài Franklin, chúng ta có được chính thể gì, một nền quân chủ hay một nền cộng hòa?” Ông đáp: “Một nền cộng hòa, nếu các người còn giữ được nó.” Benjamin Franklin muốn nói, một nền cộng hòa, tức chính quyền của nhân dân, dựa trên luật pháp và trách nhiệm của người dân. Nền cộng hoà không tự bền vững, nó chỉ tồn tại nếu người dân có đủ phẩm hạnh, lý trí. Dân chủ không phải một thành quả, mà là thử thách liên tục. Câu nói ngắn gọn, đanh thép năm xưa của Franklin nay linh nghiệm, dưới thời Donald Trump.
Sáng nay, một post trên mạng xã hội của một người bạn làm tôi khựng lại: “Nếu không thích nước Mỹ, thì cuốn gói cút đi.” Câu đó khiến tôi nhớ về một buổi chiều hơn mười năm trước. Hôm ấy, nhóm bạn cũ ngồi quây quần, câu chuyện xoay về ký ức: Sài Gòn mất. Cha bị bắt. Mẹ ra tù. Chị em bị đuổi học, đuổi nhà. Và những chuyến tàu vượt biển không biết sống chết ra sao. Giữa lúc không khí chùng xuống, một người bạn mới quen buông giọng tỉnh bơ: “Các anh chị ra đi là vì không yêu tổ quốc. Không ai ép buộc dí súng bắt các anh chị xuống tàu cả.” Cả phòng sững sờ. Ở đây toàn người miền Nam, chỉ có chị ta là “ngoài ấy.” Vậy mà chị không hề nao núng. Ai đó nói chị “gan dạ.” Có người chua chát: “Hèn gì miền Nam mình thua.”
Trong cái se lạnh của trời Tháng Mười vào Thu, khi màu lá trên khắp nước Mỹ chuyển sang gam màu đỏ rực, vàng óng, thì một cơn bão đang âm ỉ sôi sục, len lỏi dưới bề mặt của cuộc sống người Mỹ. Gió càng thổi mạnh, cơn bão ấy sẽ càng nhanh chóng bùng nổ. Vỏn vẹn trong một tháng, nước Mỹ chứng kiến ba sự kiện chấn động, nức lòng những người đang dõi theo sự mong manh của nền Dân Chủ. Mỗi sự kiện diễn ra trong một đấu trường riêng của nó, nhưng đều dệt nên từ cùng một sợi chỉ của sự phản kháng kiên cường: bắt nguồn từ sự phỉ báng tính chính trực của quân đội; tước toạt thành trì độc lập, tự do của báo chí – ngôn luận; và những cú đánh tới tấp vào sức chịu đựng của người dân.
Hiểu một cách đơn giản, văn hoá là một khái niệm tổng quát để chỉ sự chung sống của tất cả mọi người trong cùng xã hội, bao gồm ngôn ngữ, phong tục tập quán, tôn giáo và luật pháp. Do đó, luật pháp là một thành tố trong toàn bộ các hoạt động văn hoá và có ảnh hưởng đến tiến trình phát triển xã hội, một vấn đề hiển nhiên...
Bất kỳ là ai, trẻ cũng như già, nữ cũng như nam, thật là tò mò, nếu chúng ta có thể biết được tương lai gần hoặc xa của mình, của người khác. Biết được tương lai là chuyện thú vị, hoặc căng thẳng, hoặc sôi nổi, hoặc sợ hãi. Ví dụ như bạn tiên đoán được ba tháng nữa sẽ gặp tai nạn hoặc cuối năm nay sẽ bị vợ ly dị. Nhưng có thể nào tiên đoán như vậy không? Làm gì có, chỉ là chuyện giả tưởng, chuyện phim ảnh và tiểu thuyết. Chuyện mấy bà phù thủy nhìn vào thau nước hoặc quả bóng kính trong thấy được chuyện mai sau, việc mấy ông thầy bói bấm tay nhâm độn, lật bài bói toán, v… v… chỉ thỏa mãn giấc mơ và tưởng tượng. Trong thực tế, chuyện đang xảy ra còn chưa giải quyết xong, nói chi chuyện ngày mai. Không đúng, nếu biết chuyện ngày mai thì chuyện hôm nay vô cùng dễ giải quyết. Ví dụ, “nếu biết rằng em sẽ lấy chồng, anh về lấy vợ thế là xong. Vợ anh không đẹp bằng em lắm, nhưng lấy cho anh đỡ lạnh lòng.” (Thơ vô danh). Thay vì cứ đeo đuổi hai ba năm sau, kéo dài buồn bã, đau khổ, để rồi “Lòn



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.