Hôm nay,  

Hiến Pháp và Nhân Quyền

01/04/201500:00:00(Xem: 3627)

Hơn ba năm sau khi Thế chiến thứ hai chấm dứt, hình ảnh kinh hoàng của những vụ tàn sát hàng triệu sinh mạng trên gần khắp địa cầu đã thôi thúc mọi người phải xác quyết và khẳng định thượng tôn quyền của con người: sống tự do, an toàn, phẩm cách được tôn trọng, sự phát triển và thăng tiến cá nhân được khuyến khích.

Với sự đồng tình tuyệt đối, ngày 10 tháng 12, 1948, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc thông qua Bản Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân quyền. Quyền thiêng liêng của con người đã được thế giới chính thưc công nhận. Và từ đấy, nhân quyền lần lượt hiện diện trong hiến pháp của các quốc gia thành viên trước đấy chưa quan tâm đến nhân quyền. Tuy nhiên, vài ngoại lệ còn tồn tại với 5 chế độ cộng sản còn sót lại. Bất hạnh thay, trong số này có quốc gia Việt Nam dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa (VNXHCN) !

Giữa lúc trong gần hai trăm quốc gia lớn nhỏ, hiến pháp và nhân quyền khắn khít với nhau như hình và bóng thì tại VNXHCN cái gọi là hiến pháp nhất định không chấp nhận nhân quyền, bị xem như khí giới của « thế lực thù địch ». Đòi hỏi nhân quyền sẽ bị trừng trị, đánh đập. Tranh đấu cho nhân quyền sẽ chắc chắn vào tù. Tách riêng một thiểu số đảng viên cộng sản, 90 triệu người Việt còn lại bị xem là «thế lực thù địch» và cảm tình viên của thế lực thù địch, được canh chừng cẩn mật. Mới hai năm trước đây, thừa dịp Nhà Nước cộng sản «cho» dân bày tỏ ý kiến tu chính hiến pháp, dân chúng không mấy tin nhưng vẫn đề nghị một số tu chính nhằm công nhận một số dân quyền và nhân quyến căn bản, họ đã hoàn toàn thất vọng.

Cộng sản còn, dân quyền và nhân quyền thực sự không có chỗ đứng trong hiến pháp. Vì vậy, không có cách nào hơn để dân quyền và rộng hơn quyền thiêng liêng của con người được công nhận và triệt để tôn trọng, là tranh đấu, tranh đấu cho đến cùng chứ không thể « xin cho ».

Một mai, trong sự thành lập tân chế độ hậu cộng sản, nhân quyền đương nhiên là một mối quan tâm hàng đầu của các nhà lập hiến đặng hoàn thành một hiến pháp trong đó nhân quyền và dân quyền sẽ được khai triển và ghi khắc như một đảm bảo vững chắc cho các quyền tự do của mọi công dân Việt Nam từ Bắc chí Nam và cho nền dân chủ của nước Việt Nam tương lai, hòa bình, tiến bộ.

Hiến pháp và Nhân quyền sẽ không còn là hai đối thủ như dưới thời VNXHCN.

Hiến pháp và Nhân quyền sẽ quyện lại với nhau thành nền tảng chính trị của một thời đại mới huy hoàng của dân tộc Việt Nam.

- Hiến pháp và hiến pháp

Mọi quốc gia đều có hiến pháp: một bản văn quan trọng nhất thông thường trình bày đúc kết nền tảng triết lý chính trị của quốc gia, xác định tổ chức các lãnh vực hành pháp, lập pháp, tư pháp qua các định chế liên hệ, các chính sách quốc gia căn bản về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, các quyền và bổn phận của công dân, các nhân quyền phổ cập, sự điều hợp giữa các cơ cấu quốc gia…

Thế nhưng không phải hiến pháp nào cũng giống nhau giữa các quốc gia. Qua giòng lịch sử thế giới, chúng ta nhận thấy có hiến pháp của các quốc gia theo chế độ quân chủ chuyên chế, quân chủ lập hiến, chế độ cộng hòa, chế độ cộng sản với những danh xưng khác nhau (Cộng Hòa Xã Hội Sô Viết gọi tắt Nga Sô, Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa, Dân Chủ Nhân Dân các nước Đông Âu cũ và riêng Cộng sản Việt Nam với hai danh xưng kế tiếp VN Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa VN).

Riêng Vương Quốc Anh, một nước dân chủ kỳ cựu nhất thế giới, đã từ 800 năm nay phát triển những qui tắc có tính cách hiến định và luật hành chánh khởi nguồn từ hiến chương The Magna Carta (1215) mà nhà vua John của Anh quốc buộc phải ký dưới áp lực của một số quí tộc chống lại chính sách của Nhà vua áp đặt sưu thuế nặng nề, hạn chế tự do cá nhân. Hiến chương The Magna Carta ban hành những điều có thể gọi là dân quyền và nhân quyền đầu tiên trong lịch sử Anh quốc. Các luật lệ kế tiếp được nghị viện thông qua tạo thành một thứ « hiến pháp không thành văn » (constitution non écrite) độc đáo.

Trong lúc ấy, tám thế kỷ sau, còn có những hiến pháp « thành văn » rõ ràng, được công bố long trọng, ghi chú đầy đủ các điều khoản và nguyên tắc dân chủ, nhân quyền, nhưng lại không được áp dụng hoặc chỉ được áp dụng phần nào.

Nhưng trên tất cả các sự khác biệt, hiến pháp Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) năm 2013 đã tự tạo thành một hiện tượng khác thường sánh với non hai trăm nước không cộng sản, khác thường vì:

1. ngay trong « Lời nói đầu » của bản hiến pháp, các nhà lập hiến đã không dè dặt xác quyết: « …………………………Thể chế hóa Cương Lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ………………….. » nghĩa là biến Cương Lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam thành thể chế chính trị của quốc gia !

2. tiếp theo là điều 4 quái dị đặt đảng cộng sản trên đầu quốc gia dân tộc: « Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiền phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng – là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội…………………………………………………………………………………. ».

Nhân quyền và dân quyền không thể và không còn chỗ đứng trong một hiến pháp như vậy, cưỡng đặt một quốc gia dưới sự lãnh đạo của một đảng phái, lại còn tự nhận lệ thuộc một chủ nghĩa ngọai lai và tệ hại hơn nữa, một chủ nghĩa đã bị đào thải ngay trong hầu hết các nước đã áp dụng nó và phải trả giá đắt. Tổng cọng hơn một trăm triệu sinh linh, theo tổng kết nghiêm chỉnh nhất của các tổ chức độc lập theo dõi tiến trình phát triền của các quốc gia thuộc khối Cộng sản quốc tế kể từ cuộc cách mạng bôn-sê-vít năm 1917 ở nước Nga và lan rộng nhiều vùng trên địa cầu cho đến ngày Đế quốc Nga Sô và các chế độ chư hầu ở Đông Âu sụp đổ.

- Nhân quyền

Trước khi tóm lược lịch sử của nhân quyền từ khi nhiều quốc gia đã thành hình trên địa cầu, thiết tưởng cần nhắc lại rằng nhân quyền không phải là một ân huệ của bất cứ quyền lực nào ban phát cho con người. Trong nhiều hệ thống luật pháp hiện đại, ngay từ khi còn là một bào thai thành hình trong bụng mẹ, nó đã có quyền trong di sản của người thân dành cho nó khi nó chào đời. Như từ ngữ đã rõ ràng, nhân quyền hay quyền của con người, là một quyền tự nhiên, thiết thân với con người. Từ mấy ngàn năm trước, các nhà triết học thời cổ La mã – Hy lạp, Platon, Marc Aurèle… cũng như các văn bản tôn giáo, văn chương, triết học qua các thời đại đều không nói khác.

Thế nhưng cần phải nhắc lại vì vào thế kỷ thứ 21 này, vẫn có một số rất ít chế độ chính trị, đứng đầu là các chế độ cộng sản còn sót lại sau cơn đại hồng thủy 1989-1991 quét sạch Khối Cộng sản Nga Sô và Đông Âu, các chế độ cộng sản này tiếp tục xem nhân quyền như một đặc quyền của họ mà dân chúng phải « xin cho ». Trước chính sách bạo hành dân chúng mà Việt Nam XHCH là một trường hợp điển hình, có vài quốc gia can thiệp một cách lịch sự nhưng gặp phải hoặc là lời hứa hẹn sẽ xem xét, hoặc là phản đối và xem sự can thiệp như một hành vi xen lấn vào chủ quyền của quốc gia, hay kỳ quái hơn nữa bảo rằng « nhân quyền của nước tôi không phải như vậy nên không có gì phải quan tâm ……. » ! Lẽ phải và lương tri không thể nào chấp nhận những luận cứ ngoan cố và vô ý thức như vậy khi quyền của con người đã được công nhận từ nhiều ngàn năm lịch sử, kể từ khi nhiều quốc gia và nhiều nền văn minh đã thành hình trên quả đất.

Thật vậy, năm 539 trước kỷ nguyên Thiên Chúa, Cyrus Đại Đế (Cyrus le Grand) ở Ba –Tư (Perse) đã tạo nên tiền lệ nhân quyền. Sau khi chiếm Babylone, bằng hành động rất ngoạn mục, Nhà vua giải thoát tất cả người nô lệ và phán rằng tất cả mọi người đều có quyền lựa chọn tôn giáo của mình, một thứ quyền rất quan trọng mà mãi đến bây giờ, hơn hai mươi lăm thế kỷ sau, cộng sản vẫn không thực tình tôn trọng và trên thực tế vẫn xử dụng mọi cách để chèn ép các tôn giáo, cướp đoạt tài sản các giáo hội. Bản mẫu ghi khắc tuyên cáo của Cyrus Đại đế còn được lưu giữ và quốc gia Iran tặng cho Liên Hiệp Quốc năm 1971 và LHQ đã chuyển ngữ ra tất cả các ngôn ngữ chính thức.

Tuyên cáo của Cyrus Đại Đế đã được công nhận là Tuyên ngôn Nhân Quyền đầu tiên của lịch sử loài người.

Mười tám thế kỷ sau, Hiến chương The Magna Carta 1215 vừa là khuôn mẫu một hiến pháp như đã ghi trên, đồng thời là một tuyên ngôn nhân quyền với sự ban bố những quyền đặc biệt tiến bộ của con người vào thời bấy giờ như quyền của giáo hội (công giáo) sinh hoạt tự do, chính quyền không được can thiệp vào sự sinh hoạt nội bộ của giáo hội, quyền của mọi người dân tự do sở hữu tài sản và di sản và không bị đánh thuế quá nặng, quyền của mọi người được xét xử đúng pháp luật và bình đẵng trước công lý……..Đúng 800 năm sau hiến chương này, con người Việt Nam dưới chế độ xã hội chủ nghĩa hiện thời có được hưởng những quyền thiết yếu ấy không ?!


Cũng tại Vương quốc Anh, năm 1628, Nghị Viện đã thông qua dưới triều vua Charles Đệ Nhất, một loạt các quyền tự do dân sự làm nền tảng cho sự phát triển nhân quyền mà quan trọng nhất là qui tắc habea corpus được thi hành năm 1679 dưới thời Charles Đệ Nhị.Theo qui tắc quan trọng này, mọi sự giam giữ người phải được phép của vị( thẩm phán để bảo đảm cho quyền tự do cá nhân. Qui tắc habea corpus sẽ được liên tục áp dụng tại nhiều quốc gia cho đến bây giờ với vài chi tiết áp dụng khác nhau mà thôi.

Một hế kỷ sau, nhân quyền lại được thể hiện rõ nét trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 4 tháng 7, 1776 của Hiệp- chủng -quốc Hoa Kỳ và trong hiến pháp 1787 của quốc gia này.

Cuộc cách mạng 1789 của Pháp cũng đề cao nhân quyền trong bản « Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền », khẳng định rằng: « Mọi người sinh ra và lớn lên tự do và bình đẳng trước pháp luật » và nhân quyền là những quyền bất khả triệt tiêu (droits imprescriptibles) của con người có giá trị phổ cập trên toàn cầu.

Nhưng bước đột phá cuối cùng mang tính chính thức là bản « Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền » ( la Déclaration des Droits de lHomme – The Universal Declaration of Human Rights ) được Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc chấp nhận ngày 10 tháng 12, 1948. Từ đấy, hai Công ước quốc tế được sọan thảo và chấp thuận, kết hợp với bản Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền thành Bộ Luật quốc tế Nhân quyền ( Intrnational Bill of Human Rights):

1. Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa

2. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị

Hai công ước này được thông qua năm 1966 và có hiệu lực thi hành năm 1976 sau khi được một số quốc gia chấp nhận và phê chuẩn. Nhiều quốc gia còn tiếp tục phê chuẩn và rất nhiều văn kiện kế tiếp khai triển các công ước trong nhiều lãnh vực từ những quyền tự do cá nhân căn bản cho đến quyền dân tộc tự quyết, quyền lao động, sự cấm chỉ tra tấn. v.v…

Nếu quả thật mục đích của các tác giả đa-quốc gia và đầy thiện chí của Bộ Luật quốc tế nhân quyền đáng kính phục vì lý tưởng tự do, dân chủ, vì sự tôn trọng giá trị siêu việt của con người, vì lòng mong muốn xây dựng một thế giới an lạc hòa bình sau hai cuộc thế chiến gây tang tóc cho một phần nhân loại thì tiếc thay, thực tế lại khá phủ phàng. Một số quốc gia vẫn không áp dụng các quyền tự do căn bản của con người dù đã ký kết vào tất cả ba văn bản ghi trên của Bộ Luật quốc tế Nhân Quyền. Thậm chí có thành viên của Hội Đồng Nhân Quyền, cơ quan tối cao của Liên Hiệp Quốc về nhân quyền, lại là quốc gia vi phạm nhân quyền công khai và trắng trợn: trường hợp Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa là một !

Vượt quá các quốc gia, quyền của con người lại đang phải trải qua một thử thách mới do sự mù quáng của một số tín đồ cực đoan của đạo Hồi, một tôn giáo lớn có mặt gần khắp địa cầu. Quyền tự do tư tưởng, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng đang bị đe dọa nghiêm trọng ngay trong lòng các quốc gia Tây phương như vụ tàn sát các ký giả của tờ báo Charlies Hebdo ở Pháp vừa qua và tiếp theo, tại thủ đô Đan Mạch với thiệt hại nhẹ hơn vì hung thủ không dột nhập được vào hội trường, nơi đang diễn ra một buổi thảo luận về quyền tự do phát biểu, tự do báo chi qua vụ Charlies Hebdo ở Pháp.

Nhân quyền còn bị vùi đạp man rợ hơn nữa tại vùng ranh giới Irak và Syrie. Một nhóm cực đoan chiếm cứ một vùng ở đây, lợi dụng cuộc chiến chống chính quyền Syrie tại vùng tranh chấp này, đã thành lập một « Quốc gia Hồi giáo Irak- Syrie » ( Islamic State of Irak and Syria) áp dụng những cực hình làm lu mờ những cực hình của thời Trung Cổ, như chặt đầu, thiêu sống nạn nhân mà một số bị chúng kết tội « tà đạo » vì không cùng một tôn giáo với chúng.

Thiết tưởng trong những vụ được gọi là khủng bố của hồi giáo cực đoạn đã và đang xẩy ra ở nhiều nơi, đặc biệt ở Trung Đông, Phi Châu, Âu Châu, Úc, Gia nã đại, phần lớn nguyên do bắt nguồn từ thái độ hận thù của khuynh hướng Hồi giáo cực đoan đối với đạo Do Thái và Thiên Chúa giáo, trở thành đố kỵ và dị ứng với văn minh Tây phương. Vụ quốc gia Israel chiếm cứ lãnh thổ của Palestine mà đa số dân chúng theo đạo Hồi, kéo dài hơn nữa thế kỷ nay trước sự bất lực của cộng đồng thế giới càng khiến cho tâm lý hận thù thêm nặng nề. Tính mạng của con người, quyền sống tự do, mưu cầu hạnh phúc bị thường xuyên đe dọa. Nhân quyền không còn được coi trọng nữa trong bối cảnh của hận thù tập thể, của cuồng tín mù quáng làm lu mờ lý trí, đánh mất lương tâm và lòng nhân đạo.

- Hiến Pháp và Nhân Quyền

Nếu lịch sử của nhân quyền đang còn bị hoen ố bởi một số chế độ chính trị lỗi thời, lạc hậu đi ngược trào lưu dân chủ tự do của thế giới và bởi sự cuồng tín mù quáng của một số quần chúng trong vài quốc gia kém mở mang thì ngược lại, nhân quyền, nói chung, có một vị trí đáng kể trong hiến pháp của đại đa số quốc gia và ngay cả trong sinh hoạt dân chúng qua những tổ chức xã hội dân sự.

Trong mọi hiến pháp của các nước tự do dân chủ, hầu hết các chương mục quan trọng đều thể hiện ý niệm nhân quyền, từ nền tảng triết lý chính trị đến các chính sách quốc gia văn hóa, giáo dục, xả hội, dân sinh, kinh tế, chính trị. Tất cả đều phải đồng qui về một mục tiêu: phục vụ người dân, vì có dân mới có quốc gia, Nhà Nước, một nguyên lý đã được đề cao gần 2400 năm trước: « Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh » (Mạnh Tử), chứ không phải đợi đến các chính khách, các luật gia hiến pháp học bây giờ. Và quyền công dân chỉ là quyền của con người, một nhân quyền được kiến trúc trong khuôn khổ một xã hội đã được tổ chức thành một quốc gia.

Sự hiện diện của đầy đủ nhân quyền trong một hiến pháp chứng tỏ mức độ cao của nền dân chủ của quốc gia ấy. Ngược lại, sự vắng bóng nhân quyền hay sự thiếu sót bảo đảm một cách minh thị nhân quyền trong một hiến pháp tố cáo một chế độ chính trị mờ ám nếu không phải là độc đoán, độc tài.

Các hiến pháp của các quốc gia dân chủ có thể khác nhau về mô hình của thể chế nhưng nội dung về chất lượng dân chủ, tự do, nhân quyền không khác biệt nhau đáng kể. Riêng về Việt Nam Cộng Hòa trước 1975, chúng ta có hai hiến pháp của Đệ Nhất và Đệ nhị Cộng Hòa, 1956 và 1967, đều theo tổng thống chế (régime présidentiel). Dù trong hoàn cảnh bạo loạn và chiến tranh do cộng sản phát động, hai hiến pháp vẫn thể hiện đúng mức dân chủ và nhân quyền. Vài hạn chế vì lý do an ninh và chống Cọng thực ra quá ít so với tình thế lúc bấy giờ.

Nói chung, dù ở trong mô hình nào kể trên, hiến pháp của các nước dân chủ hiện đại cũng dành cho nhân quyền một vị trí hàng đầu thể hiện trong các quyền công dân căn bản bên cạnh những điều khoản khác về thể chế chính trị, các chính sách quốc gia, tổ chức công quyền, sự hoạt động của các định chế quốc gia.v.v…

Mọi đạo luật của cơ quan lập pháp, mọi quyết định của hành pháp như sắc lệnh, nghị định.v.v… có thể bị Viện Bảo Hiến hủy bỏ nếu vi phạm một điều khoản hay ngay cả tinh thần của hiến pháp. Tại Hoa Kỳ, Tối cao Pháp viện Liên bang hành sử thẩm quyền của Viện Bảo Hiến như vừa kể trên, nước Pháp và Việt Nam Cộng Hòa đều có một Viện Bảo Hiến riêng biệt mà tổ chúc gần giống nhau. Một điều khỏan luật lệ vi phạm nhân quyền trái với hiến pháp đều bị xem là vi hiến, phải bị hủy bỏ.

- Nhân quyền và quyền dân tộc tự quyết

Nhân quyền cũng là lẽ sống của một con người. Tôn trọng nhân quyền là nhìn nhận giá trị siêu việt của con người mà không một thế nhân nào, không một quyền bính nào có thể tước đoạt. Nhân quyền không phải là một vật « xin, cho ». Ròng rã bốn mươi năm nay, cuộc tranh đấu đòi lại nhân quyền không lúc nào ngưng nghỉ, chỉ khi yếu, khi mạnh nhưng khí thế mãnh liệt hơn với thời gian. Vì sự sợ hãi cá nhân đã nhường bước cho lòng can đảm tập thể. Vì phần lớn cộng đồng quốc tế đã can thiệp với chính quyền cộng sản.

Nhưng tiếc thay, cộng sản Việt Nam vẫn ngoan cố chối cãi hoặc giải quyết vài trường hợp để khỏi làm mất mặt một vài quốc gia mà chúng mang ơn. Kinh nghiệm ê chề này chắc chắc sẽ kéo dài vô tận. Tiềm lực quốc gia suy yếu giữa lúc hiểm họa ngoại xâm ngày càng gia tăng.

Trước thế nước như vậy, chiến lược tranh đấu cho nhân quyền phải thay đổi và phải lồng vào trong cuộc tranh đấu giành lại quyền tự quyết của dân tộc. Vì sự sống chung nhân quyền với một chế độ độc tài toàn trị là một nghịch lý tuyệt đối. Vì chỉ khi nào dân tộc đã giành lại được quyền tự quyết của mình để thiết lập một thể chế chính trị dân chủ, tự do thực sự thì nhân quyền mới được áp dụng và tôn trọng đúng mức, thuận lợi cho sự phát triển toàn diện của con người, thể chất và tâm linh.

Paris, tháng 3, 2015

LS Lê Trọng Quát
http://vnqvn.blogspot.com/

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.