Hôm nay,  

Khóc trước những nụ cười

29/04/201522:16:00(Xem: 7563)

Khóc trước những nụ cười

Nguyễn Công Bằng (VDF)

 

blank
Trẻ con Việt Nam rất yêu đời, trong hoàn cảnh khổ nào cũng cười được. Cảm nghĩ này đã theo tôi trong nhiều năm cho đến khi tôi nhận thức được rằng: Sự vui tươi hồn nhiên đó có được vì cuộc đời của chúng không có gì khác để so sánh thế nào là xấu đẹp, dở hay… Đáng nói là phần lớn những đứa trẻ sinh ra ở Cambodia không có giấy khai sinh. Và vì vậy, tương lai của chúng rất có thể sẽ tương tự như cái hiện tại khốn khổ của cha mẹ chúng – cũng là những người không có giấy căn cước ở xứ này.

Chỉ kể từ năm 1975 đến nay, đã có hơn hai thế hệ trẻ Việt sinh ra ở Cambodia. Theo thông tin từ mạng CIA World Factbook thì số người gốc Việt ở Cambodia hiện nay vào khoảng 5%, tức gần 800 ngàn người. Và với sĩ số này, ít nhất có khoảng 100 ngàn trẻ đang ở tuổi đến trường. Nhưng thực tế ghi nhận được cho thấy là, vì nhiều hoàn cảnh khác nhau, số trẻ may mắn được đến trường chiếm một tỉ lệ rất nhỏ. Phần lớn phải phụ giúp cha mẹ mưu sinh từ khi chưa được 10 tuổi.

Tôi đã gặp những đứa trẻ phụ giúp cha mẹ đi thu lượm vật liệu phế thải như chai nhựa, giấy bồi, kim khí vụn… một“nghề” có tên là “ép chai” ở Cambodia.

blank


Nhìn những đứa trẻ chỉ cao hơn cái xe ba-gác một cái đầu, vật lộn với sức nặng để lôi chiếc xe, hay vác trên vai cái bao nylon to đùng đi lùng sục các ngỏ hẻm, thùng rác, quán ăn… để tìm chai nhựa, ai thấy lòng cũng phải se lại. Nhưng lạ làm sao khi các em vẫn tươi cười chứ không có một giọt nước mắt nào rơi xuống bên cạnh những dòng mồ hôi nhỏ bé. Nếu hỏi ra sẽ biết các em cười vì xe đã thu được khá nhiều món. Vì những “món” rác phế liệu này đồng nghĩa với chén gạo, bát cơm của các em.

Đó là những đứa trẻ thuộc các gia đình sống bằng cái “nghề” mà người bản xứ không chuộng làm. Còn những đứa bé sống với cha mẹ trên những chiếc bè, ghe, nhà nổi… thì sao?

blank


Không gian sinh hoạt hàng ngày của nhiều gia đình 5-7 người không lớn hơn 20 mét vuông. Có những cái ghe nhỏ đến nỗi mọi người phải di chuyển tới lui bằng cách… bò lom khom.

Những đứa trẻ có cha mẹ làm “nghề cá” thường phải chung sức phụ giúp gia đình bằng sức lực bé nhỏ của chúng. Ai có dịp chứng kiến cảnh những mái đầu xanh chỉ vào khoảng 9, 10 tuổi phải bơi xuồng, lặn nước để giăng câu, kéo lưới… chắc không thể tránh khỏi cảm giác bàng hoàng. Và đó cũng là tại sao đứa nào cũng đen thui, đen thít không khác gì người bản xứ.

blank


Đối với những cảnh khổ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc và phải vật lộn với cuộc sống hằng ngày, “child labor”không là một vấn đề. Thậm chí, chắc chắn không người nào biết được từ ngữ này là gì. Nếu được ai cắt nghĩa, những người dân khốn khổ này chỉ có thể lắc đầu vì không hiểu nổi tại sao lại có định nghĩa như vậy. Ở những nơi này, người ta quan niệm đơn giản đến đau lòng rằng: Dốt không chết, đói mới chết!

Theo lời một nhà sư vốn cũng là một Bác sĩ Y khoa, hầu hết trẻ Việt ở Cambodia đều bị suy dinh dưỡng, và hay mắc bịnh đường ruột.


blank


Đối diện với những đứa trẻ chậm lớn vì thiếu ăn, bệnh hoạn vì thiếu thuốc… khó ai cầm được nỗi bùi ngùi. Những thiếu nhi “vô tổ quốc” này không có nguồn thực phẩm nào khác ngoài nồi cơm đạm bạc của gia đình, và khi đến tuổi đi học không thể vào trường công lập vì không có khai sinh (ngoại trừ đóng “lệ phí” 10 mỹ kim mỗi năm để được vào trường, và được học tối đa đến lớp 3). Đáng lo hơn nữa là khi có bệnh thì không được hưởng chế độ y tế miễn phí của trẻ bản xứ.

Tôi cũng đã chứng kiến cảnh những đứa trẻ hồn nhiên chơi đùa cạnh cồn cát dơ bẩn cạnh bờ Biển Hồ, và cúi người xuống uống nước một cách tự nhiên – một thứ nước đục ngầu xen lẫn rong rêu, rác rưởi quyện lấy nhau của bờ hồ ở mùa nắng hạn.


blank


Đây là thứ nước mà ngay cả những người bạn bản xứ đi cùng chuyến công tác với tôi cũng tránh lau mặt, rửa tay dù trời nóng bức và người đổ mồ hôi nhuễ nhoại.

Tôi cũng đã gặp những đứa trẻ ham học, cảm ơn “Thầy” rối rít khi được cho đi học miễn phí. Trước đó, các em phải đóng “học phí” là 200 riels (5 xu USD) cho mỗi ngày học -- một khoản hết sức nhỏ bé mà không ít gia đình cũng không kham nổi, và đành để con dốt chữ.


blank

Trong những năm qua, thỉnh thoảng có một nỗ lực trợ giúp giáo dục do người từ hải ngoại về Cambodia tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, vì nhiều khó khăn, phức tạp khác nhau số chương trình thiện nguyện này không kéo dài được lâu, và số còn lại rất hiếm hoi.

Khi tìm hiểu, chúng tôi nghe nói đã từng có lớp Việt ngữ tư ở đây đó nhưng Thầy, Cô thiếu thốn quá, dạy được một thời gian thì phải bỏ đi tìm kế sinh nhai. Có một số em thiếu niên thiếu nữ hiếu học kiên trì tìm lớp tìm thầy, ráng học thêm chữ nào hay chữ nấy. Vì vậy, sẽ không có gì kỳ lạ khi trong lớp 1 có cả những em trên 12 tuổi.

ViDan Foundation (VDF) đang bước vào năm hoạt động thứ ba ở Cambodia. Chương trình tổ chức dạy chữ cho các em có chiều hướng phát triển tốt, từ con số 45 em năm 2013 tăng lên hơn 500 em vào thời điểm tháng 4/2015. Đây là một sự may mắn nhưng cũng là một nỗi lo.

Các lớp dạy chữ sẽ không thể tiếp tục nếu như ngân quỹ bảo trợ không tìm được đủ, hay điều kiện thực hiện chương trình ở xứ này gặp phải bất trắc…

Anh chị em VDF hồi hộp. Các bạn trẻ hội MIRO, tổ chức thiện nguyện đang phối hợp, yểm trợ cho VDF hồi hộp. Và gia đình các em cũng luôn hồi hộp, không biết rằng ở lục cá nguyệt tới Hội có đủ tiền để tiếp tục bảo trợ giáo dục cho các em hay không.

Thôi thì cũng… cười cho vui như các em vậy! Phần còn lại, trông chờ vào phúc phần mà đám trẻ này sẽ nhận được từ những tấm lòng hảo tâm ở khắp nơi. Và cao hơn nữa, mong được Trời Phật tiếp tục phò trợ cho.

Viết với bao nỗi niềm vì những đám trẻ thơ bất hạnh ở Cambodia.

Nguyễn Công Bằng(VDF)

Tháng 4/2015

 


THÔNG TIN LIÊN LẠC & YỂM TRỢ:

Mạng toàn cầu của Hiệp Hội Vì Dân: www.hoamai.us & www.vidan.us

Điện thoại Văn phòng: 1-713-849-3511   |  Anh Trinh: 1-713-391-9843

Thư từ, chi phiếu: Vidan Foundation, P.O. Box 842064, Houston, TX 77284-2064

eMail đóng góp qua PayPal: [email protected]
.
,

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.