Hôm nay,  

Tâm Tình 30/4 Với Ca Sĩ Ái Vân

02/05/201500:00:00(Xem: 9553)
Ngày 30/4/1975 chị đang ở đâu và làm gì?

Khi đó Vân đang ở Đông Hà. Từ đầu tháng 4/75, qua đài mọi người đều biết chiến sự đang hết sức sôi động. Suốt những năm chiến tranh thì mơ ước lớn nhất của mọi người miền Bắc là kết thúc cuộc chiến, nói theo từ hồi đấy là “giải phóng miền Nam”.

Khi đó, với những chiến thắng vang dội mỗi ngày, mọi người rất phấn kích, nghĩ là đích cuối sắp đến. Trong nhà trường mọi người chuẩn bị tinh thần cũng là để tiến vào Sài Gòn. Vân là sinh viên chỉ nghe biết vậy. Nhưng đến giữa tháng 4, nghe nói tiến vào Sài Gòn, ngoài quân sự thì công tác văn nghệ cũng hết sức quan trọng, cần sự tăng cường rất lớn, nên ở trường thanh nhạc có anh Quang Huy và Vân được ông Huỳnh Văn Tiểng chọn cho đi theo quân số của đài truyền hình để vào Sài Gòn.

Sáng 29/4 xe của đài truyền hình xuất phát từ 41 Bà Triệu, đi tức tốc ngày đêm đến chiều hôm sau vào đến Đông Hà thì nghe tin Sài Gòn được giải phóng rồi. Trên xe còn có hai mẹ con cô Lan Hương, xướng ngôn viên nổi tiếng người miền Nam. Lúc đó Vân cảm thấy háo hức, mong chờ ngày đó phải là ngày huy hoàng rạng rỡ đón mừng. Nhưng mà mình đi vào nơi phía bắc của miền Nam sao thấy tối quá và cảnh xe Phi Long, Phi Mã, xe lambretta, xích lô máy hỗn độn với người chạy vào, kẻ chạy đi. Mình thấy dư âm chiến tranh vẫn còn rõ nét.

Khi nào đoàn của chị vào đến Sài Gòn?

Sau mấy ngày đi cấp tốc, chiều 2/5 xe vào đến đài phát thanh Sài Gòn. Trưa đi vào đài truyền hình thấy trên đường Hồng Thập Tự đầy những vỏ đạn. Trước đó, khi xe vào đến xa lộ Đại Hàn đã thấy áo quần lính, giầy lính, thắt lưng bỏ lại. Những chiếc xe chật như nêm, trên nóc là những xe Honda. Đó là sự hoảng loạn, bề bộn của những ngày chiến tranh vừa dứt.

Cảm nhận của chị về Sài Gòn lúc bấy giờ?

Trước đây cứ nghe nói đồng bào miền Nam cần sự giúp đỡ từ miền Bắc. Cho nên khi mình vào rất ngỡ ngàng. Vân ở Hà Nội nhỏ bé xinh xinh, vào Sài Gòn mình ngợp. Ra chợ Bến Thành thấy người dân khác hẳn, dù lúc đó người Sài Gòn không dám ăn diện như trước. Họ đón nhận mình với thái độ vui mừng một cách gượng gạo và có nghi ngại. Có người nói ủa sao cô này bộ đội, vì mình phải mặc đồng phục, mà sao không bị cô ấy rút móng tay nhỉ.

Nhìn cách người dân trang điểm, ăn nói nhẹ nhàng, dù không còn ai là lính nhưng trước đây nghe nói họ bặm trợn, hùng hổ thì khi mình thấy được là đi từ ngỡ ngàng này đến ngỡ ngàng khác. Sài Gòn nó hoa lệ mặc dù lúc đó là những ngày người ta ẩn mình, nhưng người ở đây vẫn có nét hết sức bình yên. Vân cho là mình bị ngộ nhận với thông tin lệch lạc.

blank
Ca sĩ Ái Vân. (ảnh Bùi Văn Phú)

Chị có thể nói về công tác lúc đó của chị là làm gì?

Quân số của đài truyền hình lúc đó có ba lực lượng chính. Thứ nhất là từ trong R (Trung ương cục miền Nam) ra, thứ hai ngoài Bắc vào và thứ ba là công chức của chính quyền Sài Gòn lưu dụng.

Vân thuộc thành phần thứ tư là tăng cường. Khi vào mình nghĩ sẽ là xướng ngôn viên, nhưng với ba lực lượng như thế thì mình chẳng được làm gì cả. Một lần duy nhất được đọc tin, nhưng là đọc ngoài hình. Mình cảm thấy thất vọng đầy vơi. May gặp anh Chánh Trực đưa về làm với đoàn ca múa miền Nam, nhưng cũng vẫn là dự bị. Hát thì cũng chưa được solo, chỉ hát tốp ca. Có lần duy nhất khi lên Đà Lạt được hát solo vì hôm đó ca sĩ chính bị ốm. Đây là lần đầu tiên hát dân ca. Sau đó đi biểu diễn ở một số nơi như Long An, Bến Tre, Cần Thơ.

Có bà chị họ cho Vân chiếc quân gin với áo chẽn nên bị đoàn kiểm điểm. Rất chán mà không biết đi đâu, tiền không có, công việc không rõ, trong khi đang học dở dang, nên tháng 11/75 Vân và anh Quang Huy xin phép đoàn cho trở về Bắc.

Về lại Hà Nội, Vân học tiếp nhạc và tốt nghiệp đại học thanh nhạc. Sau đó là diễn viên của đoàn, ăn lương tháng, thời đó không có cát-sê, nhưng có tiêu chuẩn bồi dưỡng như trứng, sữa, đường.

Chị đã theo đoàn văn nghệ Việt Nam đi biểu diễn nhiều lần ở nước ngoài, phải không thưa chị.

Vân đã đi nhiều nước. Đông Đức 5 lần, Liên Xô 6 lần, Cuba 2 lần. Phần nhiều là tham gia biểu diễn quốc tế giữa các nước xã hội chủ nghĩa. Có lần đi thi hát nhạc trữ tình với “Bài ca xây dựng” điệu valse và Vân được giải ở Đông Đức. Năm 1978 Vân đi Cuba là trong đoàn văn nghệ tham gia liên hoan thanh niên các nước xã hội chủ nghĩa, tổ chức cứ 4 năm một lần. Vân cũng đã biểu diễn ở Nhật, Thái Lan, Miến Điện. Đi Nhật hai lần là theo lời mời của Đảng Cộng sản Nhật và đài truyền hình NHK.

Trong một chuyến đi nước ngoài, chị đã quyết định không trở về Việt Nam. Nguyên do vì sao?

Tháng 1/1990 Vân qua Đông Đức học khóa đào tạo đạo diễn cho chương trình tạp kỹ. Lúc đó Tường Berlin đã đổ rồi. Việc được đi học rất khó khăn. Mai này viết hồi kí sẽ kể chi tiết. Tháng 2/1990 Vân quyết định chui tường để trở thành “tường nhân”. Vân ra đi vì những lí do hết sức cá nhân vì chuyện gia đình không giải quyết được. Anh ấy không cho Vân một con đường để giải quyết và lúc đó cuộc hôn nhân trở nên nguy hiểm đến mức có thể có khả năng xấu xảy ra. Tin từ nhà cho biết con đường trở về của mình càng ngày càng hẹp. Vân phải quyết định mặc dù rất đau lòng vì lúc đó ở nhà còn con trai mới 4 tuổi, cha thì già còn mẹ ốm nặng.

Rồi làm sao chị lại sang Hoa Kỳ định cư?

Sang Tây Đức một thời gian thì mình lập gia đình. Anh ấy người Đức gốc Việt, làm kĩ sư. Năm 1994 hãng của ông xã mở chi nhánh ở Mỹ, cử anh ấy qua làm đại diện nên đưa cả gia đình đi. Ở Mỹ, Vân cũng đi làm. Sau thời gian lâu ở Mỹ rồi có thẻ xanh, vào quốc tịch.

Chị là nghệ sĩ miền Bắc, chị biết về nhạc vàng, tức nhạc thời Việt Nam Cộng hòa, lần đầu là khi nào?

Lần đầu tiên là năm 1975, khi Vân về nhà tập thể của đoàn ca múa miền Nam ở 77-79 Hai Bà Trưng. Tự nhiên buổi trưa ngủ dậy nghe từ nhà hàng xóm: “Ngày mai em đi biển nhớ tên em gọi về…” do Khánh Ly hát, rồi “Chiều chưa đi màn đêm buông xuống…” với Bạch Yến. Những bài đó dội vào tai mình. Tâm trạng cô sinh viên nghèo, vào đây bơ vơ, nhớ nhà nên nghe rất ngấm. Từ trước đến giờ có bao giờ được nghe Khánh Ly, hay nghe nhạc Đoàn Chuẩn Từ Linh đâu.

blank
Ái Vân trong một buổi biểu diễn trên sân khấu hải ngoại.(ảnh Bùi Văn Phú)

Sau đó chị có dịp nào hát nhạc vàng không?

Lần đầu tiên là năm 1983 với bài “Chiếc lá cuối cùng” của nhạc sĩ Tuấn Khanh. Trước đó toàn hát nhạc Đức, nhạc Liên Xô vì ngoài Bắc có bao giờ hát những loại nhạc như thế đâu.

Chị lên sân khấu hát cho người Việt hải ngoại lần đầu ở đâu?

Đó là lần hát cho Trung tâm Thúy Nga tổ chức ở Cerritos gần Los Angeles. Đây là một trải nghiệm hết sức tuyệt vời đối với mình vì lần đầu tiên diễn trên một sân khấu lớn cho khán giả Việt Nam tại hải ngoại và đã có quay vi-đi-ô. Hôm đó Vân hát bài “Trăng sáng vườn chè” và có hợp ca một bài nữa với anh Elvis Phương, anh Duy Quang, với Phi Khanh. Đó là kỉ niệm thật đặc biệt.

Dường như ở hải ngoại chị hay hát dân ca?


Hòa nhập vào con đường văn nghệ bên này có khó khăn cho Vân, vì có bao giờ biết nhạc miền Nam đâu. Thậm chí Đoàn Chuẩn Từ Linh còn bị cấm tiệt, Văn Cao chỉ nhớ mỗi bài quốc ca. Vì thế con đường dễ nhất là những bài dân ca quen thuộc. Vân chọn dân ca cũng là nỗi lòng của mình nhớ về miền Bắc. Lúc mới sang Mỹ, Vân có trải nghiệm là chẳng hạn như áo tứ thân, nón quai thao rất là hiếm. Hai mươi năm trước thị trường băng nhạc hải ngoại thiếu mảng dân ca bắc bộ, vì phần lớn người tị nạn ra đi từ miền Nam. Mà dân ca là sở trường của Vân, vì thế dân ca là cầu nối ngọt ngào giữa mình với khán giả hải ngoại.

Sau này Vân cũng hát nhạc Ngô Thụy Miên, Đức Huy và thấy hợp, còn những bài quá mềm thì với tám năm được đào tạo toàn hát nhạc cổ điển, dân ca nên không dám bước chân vào vì không phải sở trường của mình.

Sau một thời gian ở Mỹ, khi nào thì chị có cơ hội trở về Việt Nam?

Vân luôn muốn có cơ hội trở về trong những ngày đầu xa quê hương, vì còn con nhỏ, mẹ ốm và cha già và cả khán giả của mình nữa. Mình đã sống ở Việt Nam đến năm 37 tuổi mới ra đi vì thế tiếng gọi trở về hết sức mạnh đối với mình. Hơn nữa gia đình Vân ở Hà Nội gần 200 năm nên cội nguồn rất sâu. Nhưng tội vượt biên là tội rất nặng. Khi Vân “vượt tường” thì đó cũng là bức tường định mệnh ngăn cách mình với quê hương. Khi đó báo chí trong nước đã có những bài kết tội mình rất nặng. Vì thế nghĩ chuyện trở về là rất xa xôi. Rồi sau này tình hình dễ dàng hơn, cởi mở hơn. Đến năm 1998 Vân xin được visa.

Cảm nhận của chị khi trở về thăm quê hương sau tám năm xa cách như thế nào?

Rất là khác. Cái đầu tiên đập vào mắt mình là xây dựng. Hà Nội nho nhỏ, thân thuộc, xinh xắn, duyên dáng, trầm tư, ngay cả những nơi tan hoang vì chiến tranh giờ biến mất rồi. Nhà cao, khách sạn mọc lên trông hiện đại hơn. Đời sống sôi động hơn. Khi Vân trở về 36-38 Phố Huế thì bỡ ngỡ buồn vì những nhà hàng xóm, những phố của mình, trò chơi trẻ con không còn. Nhà cửa xây thêm. Kể cả con người nữa. Bây giờ mình về như là khách rồi, cảm thấy xa lạ không con phải là Hà Nội cho riêng mình nữa.

Có một dạo nghe nói chị đã mua nhà ở Sài Gòn, dự định về sống luôn ở Việt Nam, điều này có đúng không?

Cách đây hơn 10 năm, mình và ông xã đã nghĩ khi cả hai về hưu sẽ về Việt Nam ở. Dĩ nhiên Hà Nội thì không được vì đắt đỏ quá nên mình không có đất cắm dùi. Ba Vân ở Sài Gòn nên mình đã mua một cái nhà ở quận 12, hàng xóm của anh Elvis Phương. Nhà ngay sát bờ sông, có lục bình trôi đẹp lắm. Nhưng sau hai năm mua nhà, chưa ở đó đêm nào, nhà chưa hoàn thiện, lại do người nhà đứng tên. Rồi đường đi ngày càng kẹt xe, thấy không hợp lí nên sau hai năm đã bán rồi.

blank
Ái Vân (thứ hai từ trái) và Thu Phương (phải) chụp ảnh kỉ niệm với khán giả. (ảnh Bùi Văn Phú)

Chị còn ý định trong tương lai sẽ quay về sống ở quê cũ?

Về Việt Nam sống là để enjoy (hưởng) cuộc sống của quê hương mình, với gia đình, bạn bè, để thưởng thức cả những trò ăn quà vặt. Bây giờ những thứ đó còn chăng cũng hết sức mong manh. Bởi vì ra đường lúc nào cũng sợ cướp giật phải nhìn trước nhìn sau. Ra đường sợ xe tông. Mua gì, làm gì cũng sợ bị chặt chém, bị lừa. Thú vui ăn quà không còn vì mất vệ sinh, an toàn thực phẩm không có. Nếp sống văn hoá ngày càng đi xuống. Không dám nói là mình sẽ không bao giờ về nữa, nhưng mà nó nhạt dần đi vì ba Vân mất rồi, sợi dây ràng buộc với Việt Nam cũng lỏng lẻo hơn.

Lần ba Vân ốm đưa ông cụ vào bệnh viện mới thấy là kinh khủng, đến mức là Vân mong có về Việt Nam thì đừng bao giờ ốm để phải vào bệnh viện.

Còn con người có lối sống khư khư, cứ thu về mình thôi. Tính cộng đồng không có. Những thứ đó kết hợp lại trở thành cái không thoải mái khi trở về Việt Nam, cho nên Vân nghĩ ngày trở về nó trở nên xa vời.

Những lần trở về chị có hát trong nước không và có những khó khăn gì?

Những lần đầu rất khó khăn. Chuyện lên sân khấu là cần phép tắc, duyệt bài. Công an văn hoá có cho mình hát không. Rồi lại phải có giấy phép từng nơi. Có lần Vân đã hát ở Hà Nội, Sài Gòn, khi về tỉnh lại đòi xin giấy phép. Vì thế ý muốn trở về hát cho khán giả ở Việt Nam cho thỏa chí tang bồng giờ nó giảm đi rất nhiều. Sau này Vân chán không muốn hát nữa. Mấy năm nay mình cũng tự cho mình về hưu rồi và thấy khoẻ lắm, không còn căng thẳng nữa.

Ngày 30/4 lại đến, nhiều người nói về hòa giải dân tộc, chị có thể cho biết suy nghĩ của mình?

Bên này có nhiều người ra đi, không phải là “tường nhân” mà là “thuyền nhân”. Họ mất mát quá nhiều. Có những người mất hết. Nghe những mảnh đời của họ thì hiểu sự căm hận hoàn toàn có lý. Họ bị tù đày, những con người rất dễ thương lại bị gọi là “ác ôn”, “nợ máu”. Khi mình ở miền Bắc, thông tin lệch lạc, đến khi vào Nam mới thấy không phải như vậy. Khi sang đây cũng thế, gặp những người sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hoà thì họ cũng dễ thương, có nhiều cái hay mình phải học. Như thế Vân cho là sự mất mát hay hận thù của họ là hoàn toàn hiểu được.

Rồi đối với người Việt hải ngoại, nhà nước vẫn có những phân biệt đối xử. Tại sao cũng là nghệ sĩ mà Hà Nội và Sài Gòn cũng khác nhau rồi. Vân được coi là nghệ sĩ Việt kiều chứ chả bao giờ được coi là nghệ sĩ trong nước cả. Vân không hiểu và vẫn có những bức xúc. Trong phép tắc cũng thế, họ coi mình là nghệ sĩ Việt kiều nên đã có những phân biệt đối xử.

Vân đã ở Đức sau khi Tường Berlin đổ. Về lại Đức, Vân thấy tủi thân vì nước Đức không tốn một viên đạn, không đổ một giọt máu mà người ta thống nhất Đông Tây để trở thành nước đứng đầu châu Âu. Còn Việt Nam 40 năm qua, phải nói là phú quí giật lùi, nhiều người vẫn lầm lũi mưu sinh.

Chị có ý kiến gì với lãnh đạo Việt Nam và người Việt hải ngoại?

Vân chỉ muốn có ý kiến với lãnh đạo Việt Nam thôi, chứ không có đề nghị gì cho người Việt hải ngoại. Trước tiên Việt Nam phải thay đổi ghê gớm lắm thì hữu xạ tự nhiên hương. Việt kiều nói chung ai cũng nghĩ về quê hương, dù ở Mỹ hay ở Đức, nhưng khi ra đường có ai hỏi mình từ đâu tới, mình rất ngập ngừng nói hai chữ Việt Nam vì có quá nhiều cái tiêu cực, từ giáo dục, xã hội, y tế mà những ai quan tâm đến Việt Nam đều thấy như thế. Vì vậy lãnh đạo Việt Nam hãy làm cho con dân Việt được hãnh diện về đất nước mình trước đã.

Gần đây có chuyện chặt cây xanh ở Hà Nội và chị cũng đã nói lên những bức xúc của mình. Tại sao chị quan tâm?

Ở Việt Nam từ lâu người dân đã chả tin gì lãnh đạo nói. Qua vụ cây xanh cứ đổ lỗi cho nhau. Vân lên tiếng, có người ở Hà Nội lại nói sao bà ở nước ngoài mà cứ bức xúc làm gì. Nếu người trong nước còn nói thế thì cây xanh còn chết nhiều. Nhiều người ngày nay trở nên vô cảm trước những ngang trái xảy ra chung quanh mình. Ai cũng thủ, lo khư khư giữ lấy những gì trong bốn bức tường nhà mình thôi. Vân chỉ muốn làm một người công dân có trách nhiệm.

© 2015 Buivanphu.wordpress.com

Ý kiến bạn đọc
02/05/201519:58:19
Khách
Nếu Ái Vân đừng nói như Vẹm mà rất thật lòng thì qua bài phỏng vấn này, rất thông cảm với Ái Vân và bớt đi rất nhiều những hiểu lầm trước đây.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.