Hôm nay,  

Tâm Tình 30/4 Với Ông HO Nguyễn Phú

5/3/201500:00:00(View: 5546)
Thưa ông, ngày 30/4/1975 ông đang ở đâu và làm gì?

30/4 nhắc đến đau lắm. Lúc đó tôi đang ở sân vận động Cộng Hòa. Trước đó, gia đình chúng tôi trong đoàn người triệt thoái khỏi cao nguyên từ Pleiku về hướng Phú Bổn đạp lên xác nhau mà chạy. Về đến Sài Gòn thì đúng là không còn chén đũa ăn cơm. Gia đình tôi gồm vợ chồng và 7 đứa con, nhờ Trời mà còn sống sót về đến Sài Gòn.

Về đến Sài Gòn không có bà con thân thích. Bỏ vợ con trong sân vận động Cộng Hòa, mà sau này gọi là sân Thống Nhất, tôi đi tìm đơn vị để trình diện, tiếp tục chiến đấu vì trên tỉnh lộ 7 tôi đã thấy Việt Cộng tàn ác quá. Việt Cộng truy sát đoàn người di tản, bắn sối xả vào đàn bà, con nít. Quân lính đi với vợ con không còn chiến đấu được nữa, chạy như đàn vịt. Trên đoạn đường đó biết bao nhiêu người chết.

blank
Ông Nguyễn Phú trước Tổng Lãnh sự quán Trung Quốc ở San Francisco. (ảnh Bùi Văn Phú)

Ông thuộc đơn vị nào trong quân đội Việt Nam Cộng hòa?

Đơn vị của tôi thuộc Sở Nhân lực tỉnh Pleiku. Chạy về Sài Gòn trình diện Nha Nhân lực của Tướng Bùi Đình Đạm. Tôi là đại úy của Sư đoàn 23 Bộ binh, bị thương, quân nhân loại 2 nên được biệt phái về Bộ Quốc phòng phục vụ tại Sở Nhân lực tỉnh Pleiku.

Sau đó ông và gia đình đi đâu?

Sau khi miền Nam đầu hàng, gia đình chúng tôi chui rúc dưới khán đài của sân vận động Cộng Hòa. Tôi thấy những anh bộ đội miền Bắc ăn mặc rất lôi thôi, lếch thếch. Lính hải quân của miền Bắc trông như những anh gác dan. Tôi tức lắm, như thế mà họ thắng và thời gian đó tôi rất quẩn trí. Nhà cửa ở Pleiku bỏ hết, không còn tiền, còn của để đi đâu nữa.

Sau đó có lệnh trình diện đi học tập cải tạo. Tôi trình diện ngày 23/6/75. Đêm đầu tiên trong một đại học ở đường Trần Hoàng Quân, quận 10 có đồ ăn ngon lắm. Tối hôm sau thì có xe GMC bịt kín đưa chúng tôi đi, cứ còng tay hai người vào với nhau.

Theo ông thì nguyên do nào mà Việt Nam Cộng hòa đã thua?

Miền Nam thua vì đây là một trò chơi chính trị, các nước lớn đã giàn xếp và mình chỉ là nạn nhân thôi. Nguyên do kế là các lãnh đạo, tướng lãnh của Việt Nam Cộng hòa yếu về quân sự không giữ được nước, về chính trị không vận động cho toàn dân hiểu được về cộng sản.

Ông có thể kể về cuộc sống trong trại học tập như thế nào?

Sau khi trình diện tôi được đưa vào trại tập trung đầu tiên là Thành ông Năm, sau chuyển qua Z30-D ở Rừng Lá, Hàm Tân. Ở Thành ông Năm do quân đội quản lý thì ít khổ hơn là sau khi qua Z30-D là giao cho công an.

Tôi ở Thành ông Năm một năm, chỉ có sinh hoạt học tập. Mấy anh quản giáo đứng ra hướng dẫn học tập thì rất yếu về văn hóa. Hàng ngày học tập, có 10 bài học như: “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa”, “Thắng giặc Mỹ ta xây đựng bằng mười”, “Đế quốc Mỹ là kẻ thù số một của nhân dân ta” v.v... Đó là mấy chủ đề chính trong các bài học tập.

Qua trại Z30-D thì đời sống thê thảm. Phải nói là tù khổ sai. Đất rừng lá Bình Tuy cứng, họ bắt cuốc lên, đào lên để trồng khoai lang. Không có gạo mà ăn. Đi vào rừng sâu đốn gỗ về để họ bán gây quĩ nhưng tù cải tạo không được gì. Họ dùng cải tạo để làm ra tiền mà đói không cho ăn, đau không thuốc uống. Cái gì họ cũng cho “tam sinh” là thứ thuốc gồm 3 sinh tố. Aspirin cũng không có.

blank
Ông Nguyễn Phú (bên phải) tham gia biểu tình trước nơi có buổi nói chuyện của Tổng Lãnh sự Trung Quốc tại San Francisco năm 2012. (ảnh Bùi Văn Phú)

Thời gian ông đi học tập cải tạo là bao lâu?

Tất cả gần 8 năm

Trong thời gian đó ông có thấy ai bị đầy đọa, bị chết trong tù?

Ôi nhiều lắm. Hở một cái là nhốt vào cô-nic box (loại thùng sắt). Nhiều người bị nhốt vào cô-nic box, ngày nóng thiệt nóng, đêm lạnh thiệt lạnh, bị cùm hai chân hai tay, đái ỉa tại chỗ. Quản giáo cho là phản động là phạt nhốt trong đó, ăng ten trong trại chỉ điểm ai nói linh tinh thì người đó cũng bị nhốt vào cô-nic box.

Có người bị phạt như thế mà chết. Tôi nhớ anh Nguyễn Văn Bảo ở Hàm Tân hay la “Đả đảo Hồ Chí Minh” nên bị giam trong cô-nic box và nó để cho chết.

Còn chết vì bệnh thì cả chục người, vì thiếu thuốc và họ mổ ẩu lắm. Tôi đã đi chôn nhiều người, đào lỗ rất cạn, bọc cái chiếu rồi chôn vội xuống đó, lấp đất lại cho nhanh. Mấy ngày sau không còn thấy xác đâu vì bị thú rừng bới lên.

Theo ông biết thì có bao nhiêu người trong trại học tập ở Thành ông Năm và Z30-D cùng với ông.

Thành phần bị giam ở Thành ông Năm đủ hạng, từ thiếu úy lên tới đại tá. Sau đó chia ra chuyển trại. Tôi biết một láng có 300, như thế có khoảng 1500 người nhốt ở đó trong những ngày đầu. Ở Rừng Lá thì đông lắm, vài nghìn người. Có Z30-A rồi B, C, D. Rất đông vì là chỗ tập trung những người trình diện học tập ở Sài Gòn.

Đời sống trại Z30-D, ngoài lao động thì cải tạo viên có những sinh hoạt gì nữa thưa ông?

Ngoài lao động cực nhọc vẫn học lại mười bài cũ, nào là “Tiến lên xã hội chủ nghĩa”, “Nhân dân ta anh hùng đánh bại đế quốc Mỹ”. Lâu lâu chiếu phim như “Thép đã tôi thế đấy” bắt mọi người ra coi. Công an ngồi gác trên chòi, có lúc mình ngồi ngủ.

blank
Ông Nguyễn Phú (bên phải) dẫn đầu đoàn biểu tình tuần hành trên phố San Francisco để phản đối Hà Nội và Bắc Kinh. (ảnh Bùi Văn Phú)

Đến khi nào ông được ra khỏi trại học tập cải tạo?

Khi tôi được thả thì có nhiều người đã được thả trước rồi. Tôi thấy mình chả có học tập tốt gì, nhưng có lẽ do vận động từ quốc tế bên ngoài nên họ thả. Tháng 8 năm 1982 tôi được thả.

Về đến Saigon với giấy ra trại tôi thấy gia đình thê thảm. Nhà tôi ra đời buôn bán. Trước đó họ nói nếu nhà tôi đồng ý đi kinh tế mới tôi sẽ được thả, nhưng nhà tôi cương quyết trụ lại. Nhà bảy đứa con thì làm sao đi. Tới bữa, cơm trong nồi chia ra từng chén, tôi khóc rất nhiều. Từ một gia đình con sĩ quan đầy đủ nay cơ cực. Khi đó tôi đạp xích lô để giúp cho gia đình đỡ kham khổ. Nhưng sức yếu sau thời gian đi học tập nên không đạp được xa. Nhiều bữa đạp xe ra đến bến xe đi Vũng Tàu mà không còn sức đạp về.

Ông và gia đình đã đến Hoa Kỳ định cư theo diện nào?

Tôi qua Mỹ theo diện HO8. Nộp đơn đi HO cũng phải nộp tiền để lập hồ sơ. Tôi vay mượn bạn bè được một triệu đồng để nộp cho công an, cán bộ. Sang Mỹ, tôi định cư ở San Francisco từ đó đến nay.

Trong sinh hoạt cộng đồng ở miền Bắc California, ông là người rất tích cực, nhất là trong công việc bảo vệ Cờ Vàng ở San Francisco. Xin ông cho biết vì sao đã tham gia vào những việc này.

Đến Mỹ cũng có những vui buồn. Vui vì đã lo cho con cái đầy đủ. Buồn vì không đáng để bỏ nước ra đi. Tôi thường nói với các bạn người Phi, người Hàn là nếu như các anh tôi không bỏ nước ra đi, vì nước tôi có nạn cộng sản nên mới ra đi.

Thoát khỏi rồi thì cũng muốn làm gì giúp cho bạn bè còn ở Việt Nam. Tôi tranh đấu theo giòng chính, cho nhân quyền tự do dân chủ ở Việt Nam, nhưng không ồn ào. Trước hết và trên hết, tôi muốn nhà nước Việt Nam phải theo tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền chứ không phải tiêu chuẩn của các ông ấy. Chúng tôi cũng tranh đấu cho nghị quyết Cờ Vàng được thành phố thông qua năm 2005, cho việc thành lập khu Little Saigon ở San Francisco.

Thượng nghị sĩ Tiểu bang Leland Yee đi Việt Nam công tác, gặp Đại sứ Lê Văn Bàng và ông có hỏi thượng nghị sĩ có biết Nguyễn Phú ở San Francisco không. Ông Yee nói có biết và xác nhận ông Phú là một người tốt, ông tranh đấu theo hiến pháp Hoa Kỳ chứ không có gì sai và cái đó là có lợi cho các ông để thay đổi. Sau này Thượng nghị sĩ Yee nói là người Việt ở Mỹ có hai cộng đồng thì tôi không đồng ý. Người Việt có hai khuynh hướng, nhưng chỉ có một cộng đồng tị nạn thôi chứ. Ông Yee đã ngâm nghị quyết Cờ Vàng ở Sacramento sau khi ông ấy đi Việt Nam về. Từ đó tôi không còn ủng hộ ông ấy nữa. Mới đây thì Thượng nghị sĩ Yee đã bị mất chức, đang chờ ra tòa vì tham nhũng, nhận hối lộ.

30/4 năm nay kỉ niệm 40 năm ngày chính quyền Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, dịp này trong và ngoài nước lại nói đến vấn đề hòa giải, ý kiến của ông về việc này như thế nào?

Hòa giải. Tôi nghe thấy chữ “hòa giải hòa hợp” tôi rầu lắm. Tôi thí dụ nhá. Anh ở Hà Nội, tôi ở Sài Gòn. Tôi đem quân ra chiếm miền Bắc, đến nhà anh tôi đuổi anh ra khỏi nhà, giựt nhà anh, giết cha anh. Như vậy tôi là kẻ sai trái. Cũng như người miền Bắc vô, chiếm đất, chiếm nhà tôi thì tôi đánh lại kẻ đó. Vậy thì chính nghĩa về ai. Khi nói về hòa hợp hòa giải thì kẻ đi chiếm đất, chiếm nhà phải có tinh thần hướng thiện chứ. Còn nói tôi phải hòa hợp hòa giải với kẻ ăn trộm, ăn cướp đến nhà của tôi à.

Cho nên tôi nghĩ Hà Nội chỉ đưa ra chiêu bài. Thêm thí dụ thứ hai như thế này. Chẳng hạn có người Việt nói rằng thôi bây giờ mình hòa hợp hòa giải với mấy ông đó đi. Họ đang nắm chính quyền, nắm quân đội thì đâu có tư cách gì mình hòa hợp hòa giải với họ được. Cho nên chính sách phải bắt đầu từ phía Hà Nội, không phải từ mình.

Theo ông, nhà nước Việt Nam cần làm gì cụ thể để chứng tỏ tình thần hòa giải?

Họ phải biết lỗi, xin lỗi dân tộc Việt Nam tại vì họ đã đưa chủ thuyết Mác-Lê vào Việt Nam và đã nhận viện trợ của các nước cộng sản để xâm chiếm miền Nam.

Như Nam Hàn không bị cộng sản chiếm nên giờ họ giầu có biết bao. Hà Nội lỡ chiếm rồi, quá say chiến thắng mà không có tinh thần quân tử như sau cuộc nội chiến Mỹ, lại đày đọa nhiều người khiến họ bỏ nước ra đi, vùi thây trên biển cả, nên phải biết lỗi như thế. Chúng tôi bị hành hạ, chúng tôi không căm thù chuyện đó, nhưng lãnh đạo Hà Nội không biết hướng thiện.

Ông nghĩ sao về Nghị quyết 36?

Tôi không đề cao tinh thần nghị quyết 36. Nhưng ngay cả chuyện người hải ngoại về Việt Nam đầu tư, đã có biết bao người phải bỏ của chạy lấy người.

Trong dịp 30/4 này ông có những suy nghĩ gì về đất nước Việt Nam hiện nay.

Tôi muốn Đảng Cộng sản xin lỗi dân tộc, bỏ Điều 4 Hiến pháp để cùng nhau xây dựng đất nước, làm sao cho Việt Nam được độc lập tự do. Bây giờ mà đất nước vẫn còn bị ám ảnh bởi mất nước thì buồn và đau đớn quá. Ám ảnh cờ vàng ngày nay nhà nước vẫn còn sợ. Có anh bạn trẻ ở Hà Nội tham gia biểu tình, mới mặc quần áo có cờ vàng mà họ đã bắt nhốt, đánh đập. Như thế làm sao mà hòa hợp hòa giải được.

© 2015 Buivanphu.wordpress.com

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.