Hôm nay,  

Về Lại Camp Pendleton

12/05/201500:00:00(Xem: 7855)

Lái xe trên Xa lộ 5 từ Quận Cam xuống San Diego, trên đường có bảng tên và bảng chỉ lối vào Camp Pendleton, là căn cứ thuỷ quân lục chiến Mỹ có chiều dài hơn 20 dặm.

Đối với người Mỹ gốc Việt, đặc biệt với nhiều người ở Quận Cam, Camp Pendleton là một cái tên gợi nhớ vì trong căn cứ này vào cuối tháng 4/1975 những lều trại đầu tiên được gấp rút dựng lên để đón người tị nạn vào Hoa Kỳ. Đây đã là nơi tạm trú của 50 nghìn người, hầu hết đến từ Nam Việt Nam và một số ít từ Campuchia. Những người Việt được đưa đến đây là trong số 130 nghìn người đã rời khỏi quê hương khi quân cộng sản tiến vào Thủ đô Sài Gòn ngày 30/4/1975 đưa đến việc chính quyền Việt Nam Cộng hòa đầu hàng.

Khi đó, người Việt di tản khỏi Việt Nam bằng máy bay hay bằng thuyền bè được đưa đến Philippines, đảo Guam, đảo Wake, cùng lúc chính phủ Mỹ mở ra bốn trại để đón người tị nạn vào nội địa là Camp Pendleton ở California, Fort Chaffee ở Arkansas, Eaglin Air Force Base ở Florida và Indiantown Gap ở Pennsylvania.

Tôi rời Việt Nam chiều 29/4/1975. Hành trình đến Mỹ đã qua các nơi: một tuần neo ngoài biển Singapore, 6 tuần trên Grande Islands trong căn cứ Subic Bay của hải quân Mỹ ở Philippines, một tuần ở Guam và hơn một tháng ở Camp Pendleton.

Đầu tháng 8/1975 tôi rời Camp Pendleton, theo gia đình ông anh họ là thẩm phán Trần An Bài ra định cư tại thành phố Berkeley ở miền Bắc California.

blank
Khu ba-rắc nay vẫn còn. (ảnh Bùi Văn Phú)

Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi tình nguyện gia nhập Peace Corps và được gửi sang Togo, châu Phi dạy học. Năm 1986 tôi về Đông nam Á làm việc cho Cao ủy Tị nạn nên đã trở lại thăm Singapore và Subic Bay vào cuối thập niên 1980.

Bốn mươi năm qua chưa về Guam thăm Asan hay về lại Camp Pendleton. Đã nhiều lần lái xe trên Xa lộ 5, nhìn thấy căn cứ của thủy quân lục chiến rộng lớn bên triền đồi, nhưng chưa có dịp ghé thăm, vì e ngại ra vào cơ sở quân sự có khó khăn, cần giấy phép.

Cuối tháng Tư vừa qua tôi đã về lại nơi mình đầu tiên đặt chân vào đất Mỹ cách đây bốn mươi năm. Chỉ hai vợ chồng tôi tìm đến chỗ đã từng là lều trại vào năm 1975.

Đúng ra sẽ có hàng nghìn người cũng đến trong một sinh hoạt tưởng niệm 30/4, nhưng ban tổ chức phía người Việt đã quyết định hủy chương trình tại đây vì không được phép hát quốc ca và chào quốc kỳ Việt Nam Cộng hòa cũ.

Thất vọng khi hay tin chương trình họp mặt được dời về địa điểm mới trong khu vực Little Saigon, nhưng tôi quyết định vẫn về thăm lại trại nên đã lên mạng tìm điện thoại, email để hỏi việc xin giấy vào căn cứ quân sự ra sao.

Các cơ quan điều hành trại tôi hỏi, khi nhắc đến sự kiện người tị nạn Việt đã đến đây 40 năm trước thì có người biết, người không. Khi hỏi về khu lều trại tị nạn cũ, không ai biết ở đâu trong căn cứ. Tất cả đều nói để được vào căn cứ chỉ cần bằng lái xe hay hộ chiếu. Vào cổng chính sẽ có thông tin hướng dẫn.

blank
Tác giả mặc áo mầu xanh biển, ngồi bên phải, chụp hình kỉ niệm với bạn trong Camp Pendleton năm 1975. (ảnh Bùi Văn Phú)

Sáng sớm thứ Bảy 25/4, từ vùng Vịnh San Francisco chúng tôi bay xuống nam California rồi mướn xe lái đi Camp Pendleton.

Trên đường, ghé phố Bolsa ăn sáng. Little Saigon ngập bóng cờ vàng, cờ hoa. Bốn mươi năm trước nơi đây còn là những cánh đồng cây trái.

Vào quán phở, gặp một bác mặc áo thun vàng trước ngực có in hình trống đồng và chim lạc bên hàng chữ đỏ “Commemorating 40 Years of Vietnamese Americans: Journey to Freedom & Beyond - Tưởng niệm 40 Năm Hành trình đến Tự do và Vươn tới” là chủ đề của buổi lễ dự định được tổ chức tại Camp Pendleton.

Muốn mua một áo làm kỉ niệm, mấy bác chỉ cho nơi bán gần tiệm phở. Tôi cũng hỏi thăm từ đây đến Camp Pendleton bao xa. Một bác cho biết quãng đường là 21 dặm và cũng nói chương trình đã bị hủy bỏ như tôi biết.

blank
Tờ giấy tác giả vẫn còn giữ với số trại khoanh tròn và số lều của một bạn quen. (ảnh Bùi Văn Phú)

Hành trình tìm về trại tị nạn xưa của tôi tưởng dễ, nhưng không.

Từ Little Saigon, lái xe trên Xa lộ 5 gần một giờ đồng hồ thì đến thành phố Oceanside, theo bảng chỉ đường dẫn vào cổng chính Camp Pendleton. Anh lính gác hỏi tôi đi đâu. Tôi nói muốn đến nơi ngày xưa là trại tị nạn cho người Việt. Anh nói chương trình đã hủy bỏ. Tôi trả lời có biết, nhưng vẫn muốn ghé lại vì đã sống ở đó vào năm 1975. Anh yêu cầu cho xem bằng lái xe. Tôi đưa cho anh và hỏi đường. Anh nói không biết, cứ vào trong sẽ có thông tin hướng dẫn.

Không ngờ việc vào một căn cứ quân sự lại dễ dàng đến thế. Vào trong thấy những cửa hàng, siêu thị và một bệnh viện cao tầng. Chắc chắn đây không phải là khu vực trại tị nạn cũ vì quá gần với xa lộ và thành phố.

Vào sâu hơn là những cơ sở huấn luyện quân sự. Đường dẫn lên núi, hai bên là nhà kho, thỉnh thoảng có khu gia binh.

blank
Lời bài hát “Còn chút gì để nhớ” của Phạm Duy được tác giả chép lại ngày 3/7/1975 khi đang sống trong trại. (ảnh Bùi Văn Phú)

Không thấy bảng hướng dẫn chỉ đường đến trại tị nạn cũ hay tượng đài kỷ niệm mà vài hôm trước tôi thấy trên báo Việt ngữ có đăng hình, đứng cạnh tượng là những người cầm cờ Hoa Kỳ và cờ Việt Nam Cộng hòa. Lúc tôi rời trại, tượng sắp hoàn thành, còn mầu xi-măng. Trong ảnh mới nhất tượng có mầu trắng.

Ghé vào tiệm McDonald trong căn cứ. Hỏi một người lính già, hỏi một anh lính trẻ cũng không ai biết gì về lều trại 40 năm trước hay về tượng đài.

Anh lính trẻ cho chút hy vọng khi anh nói nếu tiếp tục đi vào sâu hơn, chừng mươi phút lái xe sẽ thấy một bảo tàng. Ở đó sẽ có thông tin tôi muốn tìm.

Đến nơi, Mechanized Museum đóng cửa. Chung quanh có súng đạn, xe tăng được trưng bày.

Tôi trở ra. Vào PX trong khu gia binh tìm mua bản đồ. Chị bán hàng nói phải ra gần cổng chính, vào cửa hàng lớn MCX mới có bản đồ căn cứ. Tôi hỏi có biết nơi đặt tượng đài kỉ niệm người tị nạn, chị không biết nhưng rồi giới thiệu tôi cho một người lớn tuổi. Ông chỉ đường đến bệnh viện hải quân cũ, nay không còn xử dụng. Tôi mừng khi nghe được hai chữ “Naval Hospital” vì còn ghi trong kí ức. Đây là nơi trong thời gian ở trại tôi đã có một lần ghé.

blank
Đường dẫn vào trại tị nạn xưa, nay bên cạnh còn tượng đài Hand of Hope, Bàn tay Hy vọng, tác phẩm của nhà điêu khắc Nguyễn Lưu Đạt. (ảnh Bùi Văn Phú)

Theo lời chỉ dẫn, chạy về hướng Lake ONeil thì thấy bệnh viện. Nay bỏ hoang. Đúng là nơi tôi đã có dịp ghé qua cách đây 40 năm.


Nhớ mãi nơi này vì từ khi rời Việt Nam tôi chỉ ở lều trại, ngủ trên ghế bố mà chung quanh toàn cây xanh như ở Subic Bay, đồng cỏ khô như ở Camp Pendleton hay trơ trọi giữa nắng gió biển như ở Guam, vì thế được vào một nhà kiếng cao tầng như bệnh viện này là một sự kiện không phai mờ trong kí ức.

Thời gian sống trong Camp Pendleton tôi chỉ có hai dịp ra khỏi khu lều trại bằng xe buýt nhà binh. Một lần đi PX với ông anh họ. Đến đó, anh mua cho các em những cuốn sổ tay để đi học Anh văn ghi chép và một ra-đi-ô cát-sét bốn băng để sáng nghe đài BBC, VOA và để sang lại những băng nhạc Việt đang được chuyền tay nhau vì sợ khi rời trại sẽ không còn tìm thấy.

Một lần đi xa khác là đến bệnh viện này. Tôi mừng khi nhận ra nơi mình đã từng ghé qua. Ngày đó, vừa bước vào cửa bệnh viện là cảm nhận ngay được một mùi thơm đặc biệt.

blank
Bàn tay Hy vọng: Tượng đài này ghi dấu sự đón tiếp nồng ấm của nhân dân Hoa Kỳ dành cho hàng nghìn người tị nạn Việt và Cam Bốt trong “Chiến dịch Mới Đến” vào năm 1975. Gần 50,000 người tị nạn đã được lưu trú tại các trại Talega, Cristianitos và San Onofre trong khi chờ đợi làm thủ tục và tìm người Mỹ bảo trợ. Tượng trưng cho những triển vọng của cuộc đời mới và hy vọng vào tương lai, tượng đài là tác phẩm của nghệ sĩ người Việt Nguyễn Lưu Đạt, được hai người lính thủy quân lục chiến Mỹ dựng lên dưới sự giám sát của tác giả. (ảnh Bùi Văn Phú)

Sau khi chụp ảnh kỉ niệm, tôi lái xe vòng quanh khu vực nhưng không tìm ra tượng đài hay dấu tích trại tị nạn cũ.

Trở ra cổng chính, vào một cửa hàng MCX lớn như Costco tìm mua bản đồ. Cô bán hàng nói không có bản đồ in rồi dẫn tôi đến quầy dịch vụ khách hàng. Ở đó tôi nhận được bản copi vẽ sơ đồ trại. Hỏi về tượng đài, lấy bàn tay để diễn tả, cô tiếp viên nói nếu không biết ở khu vực số mấy sẽ khó tìm ra vì căn cứ rất rộng. Cô cho một số điện thoại, đề nghị tôi gọi đến đó sẽ có câu trả lời. Tôi gọi, nhưng không ai nhắc máy.

Sau hai giờ loanh quanh trong trại mà không có hy vọng, nhà tôi đã muốn bỏ cuộc. Tôi vận động tinh thần, kể rằng khi tôi đi Cuba, tiếng Tây Ban Nha không rành thế mà còn tìm ra được quán ăn Việt duy nhất ở Thủ đô Havana và nơi đặt tượng đài Hồ Chí Minh, trong khi ở đây là đất nước mình, ngôn ngữ sành sõi mà lại không tìm ra nơi muốn đến thì thật vô lý.

Dùng iPhone tìm cụm từ “Camp Pendleton and Vietnamese refugees 1975” thì ra hình tượng đài trong một bài báo tiếng Anh. Lần mò rồi tìm ra tên trại Talega trong Area 64. Xem sơ đồ có ghi khu vực này.

blank
Nơi đây 40 năm trước là những lều trại đón người tị nạn. (ảnh Bùi Văn Phú)

Ra khỏi cổng chính Camp Pendleton, chúng tôi đi ngược Xa lộ 5 về hướng bắc. Nửa giờ sau vào đến cổng San Onofre. Sau khi trình bằng lái xe, hỏi đường lên khu Talega, anh lính nói cứ chạy về phía phải sẽ thấy.

Trời trở nên âm u và bắt đầu mưa. Sau đoạn đường ngắn có nhà thì toàn đồi cỏ khô. Coi sơ đồ thấy vài con đường nhưng phải chạy khá xa mới có một ngã rẽ trái lên núi. Tôi quay ngược lại nơi gần cổng vào để dò hỏi rõ trước khi tiếp tục leo núi.

Đến khu có cửa hàng, hỏi mấy bạn trẻ nhưng cũng không ai biết. May thấy hai anh lính MP, tôi hỏi về lều trại và lại đưa bàn tay ra làm dấu tượng đài. Một anh biết rõ nơi tôi đang muốn đến, chấm lên sơ đồ và chỉ đường rành rẽ.

Đường leo núi không một bóng xe. Hai mươi phút sau tượng đài mầu trắng hiện ra trước mắt. Lúc đó gần 3 giờ chiều.

Trời mưa to, âm u nhưng lòng tôi vui vì đã về lại được nơi mình đã từng sống tạm 40 năm trước. Chỗ này là nơi bắt đầu con đường dẫn vào lều trại, giờ hai bên chỉ cỏ khô. Ngày trước quanh đây có đặt vài văn phòng tiền chế là nơi người tị nạn mới đến khai hồ sơ, làm thủ tục nhập trại. Bây giờ có một căn nhà kiểu trại lính ở bên phải.

blank
Bệnh viện hải quân cũ, nơi chữa trị người tị nạn đau ốm khi ở trong trại. (ảnh Bùi Văn Phú)

Từ ngoài là trại 8. Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã sống trong trại này. Vào trong là lều ăn, lều tắm. Trại 5, nơi tôi ở nằm bên trái. Bên phải là trại 4, 6. Sâu hơn là khu ba-rắc trại 1, 2 và 3.

Những ba-rắc còn đó. Vẫn những con số của từng căn như cách đây 40 năm đã là địa chỉ của người tị nạn. Gần đó là mảnh đất sinh hoạt cho trẻ em vào ban ngày, tối là nơi chiếu phim. Hàng ghế gỗ vẫn còn nhưng đã mục nát nhiều. Sân đá bóng gần đó tôi không nhận ra vì đã phủ cỏ khô.

Tôi ở Trại 5, Khu 9, Lều 12. Nằm chỗ nào trên đoạn đường này tôi không thể định vị trí chính xác được vì giờ toàn cỏ khô. Chỉ phỏng đoán rồi dừng xe chụp hình.

blank
Thẻ ăn của người tị nạn. (ảnh Bùi Văn Phú)

Kí ức 40 năm trước hiện về rõ như một khúc phim. Tôi nhớ những buổi học tiếng Anh trong lều với các thày Đỗ Đình Tuân, Tạ Quang Khanh, Trần Văn Chương, với cô Kelly. Nhớ buổi họp mặt sinh viên luật với giáo sư Nguyễn Văn Canh. Nhớ lễ Chúa Nhật với cha Nguyễn An Ninh.

Nhớ căn lều ở chung với các anh chị thỉnh thoảng buổi chiều yên tĩnh nghe có tiếng rắn rung chuông mà sợ. Nhớ các bạn mới quen trong trại: Nguyễn Thị Thủy, Trần Năm Châu, Nguyễn Huy Dư là sinh viên Đại học Sài Gòn. Nhớ các anh Nguyễn Văn Bút, Nguyễn Văn Chinh là lính hải quân. Nhớ cô gái tên Lê Thị Phương Trang dễ thương ở gần lều.

Nhớ những bài ca quen thuộc của Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Lê Uyên Phương vang vang trong lều mà những khi nhớ nhà tôi đã ngồi nghe và ghi lại. Nhớ những buổi tối ra bãi cỏ xem phim hoạt hình “Popeye The Sailor”. Nhớ những chiếc áo rộng thùng thình nhận từ hội từ thiện.

blank
Phố Bolsa của Little Saigon tưởng niệm 40 năm ngày 30/4. (ảnh Bùi Văn Phú)

Nhớ những bữa cơm chiều có thịt gà với hàng người dài như rồng rắn. Nhớ cảnh nhà ăn vắng hoe vì món cá không hợp khẩu vị. Nhớ món chopsuey bữa trưa, cháo thịt bữa sáng. Nhớ táo, cam thơm ngon.

Con đường từ tượng đài vào đến khu ba-rắc tôi cảm thấy ngắn hơn nhiều so với 40 năm trước. Có lẽ giờ tôi lái xe, ngày xưa đi bộ.

Nếu chương trình tưởng niệm không bị hủy bỏ, lúc này đã có hàng nghìn người Việt ở đây.

Hy vọng 5 hay 10 năm tới người Việt sẽ có cơ hội cùng nhau về đây để nhớ lại những ngày buồn đau khi nghĩ về quê hương cũ và những ngày đầy lo lắng nghĩ đến tương lai nơi đất mới. Về đây để cùng nhau nhắc nhở cho thế hệ mai sau biết là từ vùng đồi cỏ khô này cộng đồng người Mỹ gốc Việt đã được thành hình. Rồi phát triển và vươn lên.

© 2015 Buivanphu.wordpress.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
Trong bài phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York hôm 23 tháng 9 năm 2025, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nói rằng, “Biến đổi khí hậu, bất kể điều gì xảy ra, các bạn đã bị cuốn hút vào đó rồi. Không còn việc hâm nóng toàn cầu nữa, không còn chuyện toàn cầu lạnh cóng nữa. Tất cả những tiên đoán này được thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức khác, thường là những lý do tồi và đều sai lầm. Chúng được tiên đoán bởi những kẻ ngu mà dĩ nhiên là số phận của đất nước họ và nếu tiếp tục thì những quốc gia đó không có cơ hội để thành công. Nếu các bạn không tránh xa khỏi trò lừa đảo xanh này thì đất nước của các bạn sẽ thất bại.” Đó là lời chứng rõ ràng được đưa ra trước cộng đồng quốc tế về quan điểm và hành động của chính phủ Trump chống lại các giá trị khoa học mà nhân loại đã, đang, và sẽ tiếp tục giữ gìn và thực hiện để làm cho cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ và hạnh phúc hơn.
Năm xưa, khi Benjamin Franklin rời khỏi Hội nghị Lập hiến năm 1787, một người phụ nữ hỏi ông: “Ngài Franklin, chúng ta có được chính thể gì, một nền quân chủ hay một nền cộng hòa?” Ông đáp: “Một nền cộng hòa, nếu các người còn giữ được nó.” Benjamin Franklin muốn nói, một nền cộng hòa, tức chính quyền của nhân dân, dựa trên luật pháp và trách nhiệm của người dân. Nền cộng hoà không tự bền vững, nó chỉ tồn tại nếu người dân có đủ phẩm hạnh, lý trí. Dân chủ không phải một thành quả, mà là thử thách liên tục. Câu nói ngắn gọn, đanh thép năm xưa của Franklin nay linh nghiệm, dưới thời Donald Trump.
Sáng nay, một post trên mạng xã hội của một người bạn làm tôi khựng lại: “Nếu không thích nước Mỹ, thì cuốn gói cút đi.” Câu đó khiến tôi nhớ về một buổi chiều hơn mười năm trước. Hôm ấy, nhóm bạn cũ ngồi quây quần, câu chuyện xoay về ký ức: Sài Gòn mất. Cha bị bắt. Mẹ ra tù. Chị em bị đuổi học, đuổi nhà. Và những chuyến tàu vượt biển không biết sống chết ra sao. Giữa lúc không khí chùng xuống, một người bạn mới quen buông giọng tỉnh bơ: “Các anh chị ra đi là vì không yêu tổ quốc. Không ai ép buộc dí súng bắt các anh chị xuống tàu cả.” Cả phòng sững sờ. Ở đây toàn người miền Nam, chỉ có chị ta là “ngoài ấy.” Vậy mà chị không hề nao núng. Ai đó nói chị “gan dạ.” Có người chua chát: “Hèn gì miền Nam mình thua.”
Trong cái se lạnh của trời Tháng Mười vào Thu, khi màu lá trên khắp nước Mỹ chuyển sang gam màu đỏ rực, vàng óng, thì một cơn bão đang âm ỉ sôi sục, len lỏi dưới bề mặt của cuộc sống người Mỹ. Gió càng thổi mạnh, cơn bão ấy sẽ càng nhanh chóng bùng nổ. Vỏn vẹn trong một tháng, nước Mỹ chứng kiến ba sự kiện chấn động, nức lòng những người đang dõi theo sự mong manh của nền Dân Chủ. Mỗi sự kiện diễn ra trong một đấu trường riêng của nó, nhưng đều dệt nên từ cùng một sợi chỉ của sự phản kháng kiên cường: bắt nguồn từ sự phỉ báng tính chính trực của quân đội; tước toạt thành trì độc lập, tự do của báo chí – ngôn luận; và những cú đánh tới tấp vào sức chịu đựng của người dân.
Hiểu một cách đơn giản, văn hoá là một khái niệm tổng quát để chỉ sự chung sống của tất cả mọi người trong cùng xã hội, bao gồm ngôn ngữ, phong tục tập quán, tôn giáo và luật pháp. Do đó, luật pháp là một thành tố trong toàn bộ các hoạt động văn hoá và có ảnh hưởng đến tiến trình phát triển xã hội, một vấn đề hiển nhiên...
Bất kỳ là ai, trẻ cũng như già, nữ cũng như nam, thật là tò mò, nếu chúng ta có thể biết được tương lai gần hoặc xa của mình, của người khác. Biết được tương lai là chuyện thú vị, hoặc căng thẳng, hoặc sôi nổi, hoặc sợ hãi. Ví dụ như bạn tiên đoán được ba tháng nữa sẽ gặp tai nạn hoặc cuối năm nay sẽ bị vợ ly dị. Nhưng có thể nào tiên đoán như vậy không? Làm gì có, chỉ là chuyện giả tưởng, chuyện phim ảnh và tiểu thuyết. Chuyện mấy bà phù thủy nhìn vào thau nước hoặc quả bóng kính trong thấy được chuyện mai sau, việc mấy ông thầy bói bấm tay nhâm độn, lật bài bói toán, v… v… chỉ thỏa mãn giấc mơ và tưởng tượng. Trong thực tế, chuyện đang xảy ra còn chưa giải quyết xong, nói chi chuyện ngày mai. Không đúng, nếu biết chuyện ngày mai thì chuyện hôm nay vô cùng dễ giải quyết. Ví dụ, “nếu biết rằng em sẽ lấy chồng, anh về lấy vợ thế là xong. Vợ anh không đẹp bằng em lắm, nhưng lấy cho anh đỡ lạnh lòng.” (Thơ vô danh). Thay vì cứ đeo đuổi hai ba năm sau, kéo dài buồn bã, đau khổ, để rồi “Lòn



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.