Hôm nay,  

Quà Quê Nhà

23/06/201500:00:00(Xem: 8781)

Thỉnh thoảng ra phi trường đưa đón người thân quen, tôi thấy những chuyến bay về các nước châu Á như Việt Nam, Trung Quốc, Philippines có nhiều khách đi mang theo hành lý là những kiện hàng vuông vuông vừa đúng kích thước của luật hàng không.

So với những chuyến bay đi châu Âu, hành khách ít khi mang theo thùng hàng mà chỉ những chiếc vali to.

Quan sát và trò chuyện với một số người Việt về quê, tôi biết trong những thùng hàng đó có phôma, có thịt bò bí-tết, có những trái mận đỏ (cherry) là những sản phẩm Mỹ được người Việt trong nước ưa thích. Đem những thứ đó về làm quà cho gia đình, cho bạn bè thân thương là điều quí nhất sau một chuyến du hành Mỹ.

Nếu không là thực phẩm, có người lại đóng vào thùng, giữa đống quần áo và bọc ni-lông có hơi là vài chai rượu ngon như Johnnie Walker Blue Label, hay những chai rượu vang đắt tiền, đặc sản từ thung lũng Napa.

blank
Bánh đậu xanh đặc sản Hải Dương và cà-vạt lụa (ảnh Bùi Văn Phú).

Ba mươi năm trước, những thùng quà gửi về Việt Nam là những thước vải, bánh xà-phòng, hộp kem đánh răng, lọ nước hoa, chai dầu xanh, hộp mỹ phẩm, kẹo bánh.

Ngày nay Việt Nam không thiếu các mặt hàng đó loại thượng hạng, được bày bán trong các siêu thị sang trọng không thua gì như ở các nước tân tiến. Nhưng hàng đem về từ Mỹ hay từ châu Âu bảo đảm được chất lượng và không sợ mua nhầm đồ dổm.

Dầu gió xanh nay cũng vẫn thường là sản phẩm được đem về làm quà. Có người còn đem cả xì-dầu Maggi sản xuất ở châu Âu, mua từ các siêu thị ở Mỹ, đem về làm quà hay cho người thân dùng.

Tâm lí không tin hàng sản xuất trong nước, hay hàng được nhập vào thị trường Việt Nam là kém chất lượng hơn hàng Mỹ thường có trong giới tiêu dùng. Cũng có thể vì tâm lí sính hàng ngoại nên hàng từ Mỹ về là thơm, là tốt, là quí hơn.

Giống như người Việt, người Philippines và người Trung Quốc khi về thăm quê hương cũng thường mang theo nhiều thùng quà, như tôi đã có nhiều dịp quan sát tại quầy gửi hành lý của Philippines Airlines và Air China tại phi cảng San Francisco.

blank
Chè xanh và cốm vòng (ảnh Bùi Văn Phú).

Trong dịp đi Cuba cũng thấy người Cuba từ Mỹ về thăm quê nhà mang theo những thùng hàng. Hành lý về Saigon, Manila hay Bắc Kinh gói trong kiện dán băng dính là đủ. Còn về Cuba, những kiện hành lý đã gói, nịt và còn được cuốn thêm nhiều lớp ni-lông vì sợ bị rạch, bị moi đồ trước khi đến nơi.

Ngày xưa các hãng máy bay cho hành khách gửi theo mỗi người hai kiện hàng, mỗi kiện 70 cân Anh, nay giảm xuống chỉ còn mỗi kiện 50 cân, nên số lượng quà mang về quê cũng giảm đi.

Gia đình chúng tôi có liên hệ với xứ Quảng. Một lần đi xe qua cánh đồng lúa thấy một bác nông dân mặc áo com-plê đang cày dưới ruộng. Hỏi ra mới hiểu được vì nghèo quá, trời mùa lạnh nên có gì mặc đó để ra đồng làm việc. Những quần áo là hàng cũ người nước ngoài gửi về, dân ở quê xin được ai cái gì mặc cái nấy.

Vì thế khi có thân nhân về thăm quê nhà, gia đình chúng tôi không quản ngại đem theo những thùng quần áo cũ để cho người nghèo khó ở quê, dù có tốn thêm một vài trăm đô gửi thêm hành lý.

Quà tặng thì có quà nhận. Bạn bè biết tôi thích sách và các sản phẩm văn nghệ nên thường tặng sách, đĩa nhạc. Sách về văn chương, lịch sử, mỹ thuật. Các chương trình ca nhạc của Diva Việt Nam, Mỹ Linh, Thanh Lam, Hồng Nhung, Đức Tuấn, Quang Dũng hát nhạc Phạm Duy, Trịnh Công Sơn.

Chè, cà-phê, bánh đậu xanh, mè xửng, kẹo mạch nha cũng là quà đặc biệt từ quê nhà. Có những loại chè từ miền thượng du Bắc Việt, uống thơm, nhưng tôi không quen nên nhiều đêm thức đến sáng. Cà-phê Trung Nguyên 3in1 khá phổ thông và có hương vị đậm đà. Pha uống liền hay muốn nhìn ngắm từng giọt chầm chậm từ phin nhỏ xuống ly sữa thì tùy lúc, tùy nơi.

Rượu bổ có rắn, tắc kè ngâm với các thứ sâm nhung. Uống vào dễ thấy lung linh đất trời.

blank
Quà quê nhà là những tác phẩm văn chương (ảnh Bùi Văn Phú).

Có bạn từ bờ Đông nước Mỹ đi công tác ở Việt Nam về và có mua cốm xanh làm quà cho gia đình tôi. Không biết nửa ký cốm tốn bao nhiêu nhưng gửi Express qua California, cước bưu điện hơn 30 đô-la vì bạn biết để lâu cốm sẽ không còn tươi, thơm ngon. Thật đáng trân qúi.

Một thứ quà Hà Nội mà tôi thích là mứt mơ cam thảo. Sau cơm chiều, uống trà thưởng thức loại mứt này thật là tuyệt vời.

Những năm gần đây, quà quê nhà còn là nhiều thức ăn đặc sản. Ốc hút sào dừa, cá thác lác xay, cá lóc nướng là những sản phẩm không bị luật Mỹ cấm mang vào. Hôm trước được người nhà chuẩn bị nấu nướng ở Saigon, rồi đóng gói đưa lên máy bay là hôm sau thức ăn đến Mỹ cho bà con thưởng thức. Thỉnh thoảng gia đình tôi đã có những bữa ăn nhậu với ốc, chả cá chiên và cá cuốn bánh tráng.

Nhiều món ăn khác từ quê nhà tôi đã có dịp thử và thấy ngon. Tôm rim, cá cơm chiên giòn, chỉ hâm nóng lại, ăn với rau luộc chấm nước mắm là một bữa ăn đậm đà hương vị quê nhà.

Một thứ đặc sản của nhiều người Việt là mắm. Tuy trong các siêu thị Á đông ở Mỹ không thiếu loại mắm nào, nhưng có người bạn, theo tôi biết mỗi chuyến đi Việt Nam mang theo thịt cùng bơ sữa, khi về lại Hoa Kỳ là cả thùng mắm các loại, cá kèo, cá sặc đủ cả.

Không biết đã có bao giờ xảy ra sự cố những lọ mắm vỡ đổ trên đường bay giữa Saigon và San Francisco chưa.

Nhà văn Linh Bảo có truyện ngắn “Hũ mắm nêm đi Hương Cảng” viết năm 1958 kể chuyện một hũ mắm được trân trọng đưa ra nước ngoài, nhưng đến nhiều nơi lại bị chê cười, hất hủi không dám gần. Nhưng chính nó lại là biểu hiệu của quê hương trong những ngày bà sống bôn ba nơi xứ người.

Ngày nay, trên những chuyến bay từ quê nhà về lại Mỹ, nếu để ý bạn sẽ thấy từ Saigon hay Hà Nội sang Taipei, Seoul trong khoang máy bay thoang thoảng có mùi nước mắm, mùi dầu xanh là hương vị quê nhà mà nhiều du khách nước ngoài nay đã nhận ra.

© 2015 Buivanphu.wordpress.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.