Hôm nay,  

Nguồn Gốc Của Chế Độ Độc Tài

01/07/201500:00:00(Xem: 9210)

Giới thiệu sách: Hannah Arendt - The Origins of Totalitarianism

New York: Harcourt Brace, 1951

Vấn đề

Gần đây, sự sụp đổ của Trung Quốc được học giới phương Tây đề cập và một học thuyết domino trong thời kỳ mới vẫn chưa thành hình. Chừng nào chế độ độc tài của Việt Nam sẽ sụp đổ và với hình thức nào là một câu hỏi quen thuộc của người Việt mà chưa có câu trả lời chính xác. Dù nguy cơ của ĐCSVN thường được đặt ra, nhưng nguyên ủy cho sự tan rã chung này cũng là vấn đề cần tìm hiểu: chế độ toàn trị do đâu mà có.

Sự thành hình của nhà nước toàn trị là một khảo hướng lý thuyết đa dạng, nhưng sau khi chế độ Đức Quốc Xã đầu hàng thì “The Orgins of Totalitarianism“ (1951) của Hannad Arendt được học giới ca ngợi đây là một tác phẩm trứ danh, được liệt kê vào một trong số 100 danh phẩm của thế kỷ XX và tác giả được vinh danh là một triết gia có ảnh hưởng sâu đậm trong lịch sử tưởng chính trị cận đại. Bài viết sau đây sẽ giới thiệu danh phẩm này.

Tác giả

Hannad Arendt (1906-1975) là người Do Thái, nhưng sinh ở Linden gần Hannover (Đức) và trưởng thành ở Kưnigsberg. Arendt học Triết học, Thần học và Hy lạp (1924-28) tại các Đại học Marburg, Heidelberg và Freiburg với các triết gia nổi danh Martin Heidegger và Karl Jaspers. Luận án Tiến sĩ của bà là "Khái niệm về tình yêu của Augustin". Vì gốc Do thái nên bà không được phép dạy học.

Khi Hitler cầm quyền bà bị giam và sau đó cùng chồng là Gnter Stern đào thoát sang Paris tháng 8 năm 1933. Tại Paris, bà làm việc cho Jungend Aliyad, một tổ chức thanh niên tỵ nạn người Do Thái, nhưng mất quyền công dân Đức và sống trong tình trạng không quốc tịch. Bà ly dị vào năm 1937 và làm việc cho tổ chức Jewish Agency tại Paris. Bà tái giá với Heinrich Blcher. Sau khi bị giam tại trại tập trung Gurs, miền nam nước Pháp, bà và toàn gia đình sang tỵ nạn taị Hoa Kỳ năm 1941. Khởi đầu bà làm việc cho tuần báo Aufbau, sau đó cho nhà xuất bản Schocken và phụ trách điều hành cho tổ chức Jewish Cultural Reconstruction Agency.

Năm 1951 bà nhập tịch Mỹ sau 14 năm sống không có quốc tịch và cho ra mắt tác phẩm The Origin of Totalitarism. Bà nổi danh và được mời thỉnh giảng tại các Đại học Princeton, Harvard, Berkeley, Chicago và New York. Từ năm 1967 bà là giáo sư chính thức tại New School for Social Research, New York. Với nhiều trước tác quan trọng bà nhận được 10 bằng Tiến sĩ danh dự của các đại học danh tiếng và nhiều giải thưởng cao qúy. Bà mất ngày 4 tháng 15 năm 1975 tại New York.

Dù hai lần kết hôn với hai nhà trí thức tên tuổi, nhưng người tinh muôn thuở của bà vẫn là Martin Heidegger. Chuyện tình và cuộc đời tranh đấu của bà được soạn thành phim và gây thu hút dư luận. Gần đây, các luận đề của bà được học giới quan tâm thảo luận và vinh danh các đóng góp này.

Tác phẩm

The Orgirins of Totalitarianism do New York Harcourt Brace xuất bản lần đầu vào năm 1951 là một tác phẩm có ba tựa đề và viết bằng hai ngôn ngữ Anh và Đức.

Ấn bản Anh ngữ tại châu Âu do Secker & Warburg, London xuất bản vào năm 1951 có tựa là The Burdens of Our Time. Với tựa đề này bà muốn nhấn mạnh đến khía cạnh đạo đức và triết lý, vì The Origins of Totalitarianism dễ gây ngộ nhận cho độc giả là bà nghiên cứu về mối liên hệ nhân qủa, một khảo hướng thông thường của sử gia.

Ấn bản Đức ngữ của Europische Verlagsanstlt, Frankfurt a. M. năm 1955 là Elemente und Ursprnge totaler Herrschaft do chính bà dịch và tăng bổ nội dung. Tựa đề này phản ánh nội dung mà bà kỳ vọng. Ấn bản lần thứ ba năm 1966 được xem là hoàn chỉnh, vì có số lượng tăng hơn 526 trang so với ấn bản 1951 và có lời giới thiệu trang trọng của Karl Jaspers.

Nội dung

Dù với tựa đề nào thì nội dung của tác phẩm cũng không thuần là một luận đề tư tưởng chính trị của một triết gia mà là một bản cáo trạng đầy tâm huyết của một nạn nhân của chế độ Đức Quốc Xã trước một tội ác có một không hai trong lịch sử của nhân loại. Bà xem đây là trách nhiệm cao cả của mình vì những khái niệm về hình luật như tội giết người, mức độ quy trách và hình phạt xét xử không thể nào diễn đạt được bất công của cả một chế độ phi nhân.

Vì là một luận cương đấu tranh nên bà không đề ra một khái niệm cơ bản về nhà nước toàn trị để làm khởi điểm cho nội dung. Bà cho là các phương pháp của các sử gia thời hậu chiến không thể lý giải đầy đủ về biến cố trong đại này, khi chỉ đề ra mối liên hệ nhân quả trong từng biến cố riêng biệt, mà chế độ toàn trị là nguyên nhân chính cho mọi thảm hoạ. Bà nêu lên những hình thức mới của một nhà nước toàn trị mà độc giả ngày nay phải hiểu đó là một khái niệm chưa rõ nét trong bối cảnh chính trị của những năm đầu của thập niên 1950 thời Chiến tranh Lạnh.

Trong ấn bản năm 1966 bà nhấn mạnh không phải bất cứ chế độ độc đảng nào cũng là chế độ toàn trị mà chế độ phát xít Ý và chính quyền của các quốc gia Đông Âu và Liên xô trước khi Stalin chết là một thí dụ. Đặc điểm của chế độ toàn trị chỉ phát sinh trong thởi kỳ Đức Quốc Xã với chủ trương tiêu diệt người Do thái và trong chế độ Stalin, chủ trương triệt để về một xã hội lý tưởng không còn gia cấp và nhà nước.

Khác với các khảo hướng quen thuộc của các sử gia, bà không những tìm hiểu điều kiện hình thành của chế độ Đức Quốc Xã và Stalin, mà kết hợp hai hình thức độc tài này để giải thích về nguồn gốc của một chế độ toàn trị. Để nắm quyền cai trị một đất nước suy tàn, chính quyền sử dụng bạo lực không những chỉ trong sinh hoạt chính trị hàng ngày, mà còn chọn khủng bố toàn thể dân tộc là phương tiện mà việc tiêu diệt người Do Thái là một biến cố lịch sử đáng lý không thể xãy ra.

Bố cục

Tác phẩm có ba phần chính là phong trào chống người Do Thái, chủ nghiã đế quốc và chế độ toàn trị.

Phần I trình bày ba chủ đề: Tại sao phong trào chống Do Thái lại thành hình đúng vào thời điểm suy tàn mà không vào thời hưng thịnh của chủ nghiã dân tộc tại các nước châu Âu? Đâu là vai trò của cộng đồng người Do Thái trong đất nước và xã hội? Tại sao chủ nghĩa đế quốc kết hợp đúng vào thời điểm bài Do Thái?

Điều kiện lịch sử vào thế kỷ XVIII và XIX hình thành phong trào chống người Do Thái, khởi đầu là một hiện tượng xã hội phổ biến không chỉ phát sinh tại châu Âu, nơi mà phân biệt sắc tộc mà còn lan trọng, sau đó còn đến Liên Xô, nơi mà phân biệt gia cấp nặng nề.

Chương IV trình bày vụ kiện Dreyfus tại Pháp vào cuối XIX. Dreyfus, một sĩ quan Pháp gốc Do Thái, bị vào tù vì vu cáo làm gián điệp. Mặc dù Dreyfus đã được toà xét là vô tội, nhưng phong trào chống Do Thái trong quân đội, giới tu sĩ Thiên chúa giáo lan tràn ra xã hội. Nhưng tinh thần liêm khiết và dấn thân của giới trí thức Pháp, ý thức trọng pháp và nhân quyền của dân Pháp, và đặc biệt nhất là chính giới tỏ ra chống đối chủ nghiã Phát Xít của Ý trong nước là lý do chính làm cho mức tác hại của phong trào bài Do Thái tại Pháp không quá trầm trọng như tại Đức, Áo, Hung và Đông Âu.

Trong khi phong trào bài Do Thái khắp châu Âu lên cao điểm, thì cộng đồng người Do Thaí cũng mất đoàn kết trước hiểm hoạ và xem cộng đồng Do Thái tại Đức là một ngoại lệ trong lich sử. Dù cộng đồng này là một thành phần sắc tộc nhỏ, nhưng chính giới và dân chúng tìm mọi cách quy trách là tác nhân chính cho mọi tình trạng suy vi trong xã hội.

Thực ra, vai trò tài trợ của các nhà đại tài phiệt Do Thái trong tất cả mọi sinh hoạt công trong chế độ phong kiến không còn nhiều và không phải bóc lột kinh tế của giới Do Thái thể hiện trong hằng ngày, mà sự giàu có và vai trò quyết định tối hậu trong mọi sinh hoạt quốc gia, dù tiểm ẩn, nhưng đó là nguyên nhân làm cho sự thù ghét trong toàn xã hội bộc phát.

Phần II bàn về chủ nghiã đế quốc như là mối đe doạ cho toàn cầu vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Đó là một giai đoạn chuẩn bị cho thảm họa sắp tới của chế độ toàn trị và dân tộc Do Thái bị ảnh hưởng trong trong trào lưu này.

Chính giới phương Tây lập luận là các chính sách phát triển kinh tế bị hạn chế do các luật lệ vốn có sẳn trong hệ thống tư bản chủ nghĩa. Rào cản pháp luật này cần phá vở mà tăng trưởng kinh tế liên tục và mở rộng sức mạnh khỏi biên giới quốc gia là mục tiêu của chủ nghĩa đế quốc.

Từ 1884-1914, khẩu hiệu của "mở rộng vì lợi ích" đã được sử dụng để biện minh cho việc chinh phục nước ngoài, vì đó là lợi ích của dân tộc và cũng là một phương châm kinh doanh cho các công ty khai thác dã man người nước ngoài. Đóng vai trò tiên phong trong chính sách này là một số các nhà tài phiệt Do Thái có óc phiêu lưu mạo hiểm.

Có hai hình thức của chủ nghiã đế quốc, một tại châu Âu và một tại hải ngoại, mà Nam Phi và các nước thuộc điạ khác của Anh và Pháp là thí dụ. Vì theo đuổi chính sách đế quốc ở hải ngoại với chiều hướng kinh tế tư bản chủ nghiã mà chính sách kỳ thị chủng tộc hình thành. Giới thống trị da trắng gốc người Hoà Lan tại Nam Phi không chấp nhận người da đen về mọi mặt. Họ du nhập nguyên tắc cai trị chính quyền và tổ chức xã hội nước thuộc địa dựa trên màu da. Từ đó, kỳ thị và bóc lột trở thành quy tắc chung trong xã hội. Bà dùng rất nhiều các văn phẩm để chứng minh cho lập luận này.

Chủ nghĩa đế quốc trong châu Âu có những đặc điểm khác, vừa dựa theo khái niệm chủ nghiã dân tộc và sắc tộc thiểu số của một số quốc gia được thành lập muộn màng, mà các nước Đông Âu là thí dụ. Các nước này không thuần chủng và cũng không hề có một ý chí thống nhất về các vấn để chính trị. Do đó, để tạo đoàn kết quốc gia trong giai đoạn mới mà khái niệm về một tập thể dân tộc như một loại ý thức hệ mới nảy sinh. Xã hội có hai thành phần chính, một là giới lãnh đạo cực đoan, thiếu kinh nghiệm, quá giàu, hai là đa số giới dân nghèo, họ sống ngoài lề xã hội và không có ý thức sinh hoạt theo đảng phái hay hội đoàn trong một xã hội dân chủ. Cả hai giới nàycó nhu cầu phá vỡ truyền thống xa xưa và cùng muốn liên kết nhau trong hoàn cảnh mới với hai đặc thù.

Một là phong công trào công nghiệp hoá tạo ra vô số người thất nghiệp và không có cơ hội chuyển hướng thích và họ bị chê trách là sản phẩm thừa thải trong xã hội tư sản.

Hai là hậu quả của thế chiến thứ nhất gây cho nạn nhân chiến cuộc lâm vào cảnh tị nạn hay mất quốc tịch. Vấn đề không phải chỉ là họ mất nhân quyền mà chính là họ không còn có một mối quan hệ với cuộc đời và tìm một điểm tựa để chuyển hướng. Do bối cảnh bất ổn cá nhân và bất trắc kinh tế tăng lên mà một xã hội đang phân hoá theo gia cấp trở thành một xã hội đại chúng lầm than và vong thân, họ sẳn sàng làm nô lệ mới cho chính quyền nuôi mộng bành trướng chính trị.

Căn bản kết hợp là các chiều hướng thuộc về chủ nghiã tập thể dân tộc và bành truớng đế quốc. Phong trào bài Do Thái là một nỗ lực tuyên truyền được kết hợp trong trào lưu này. Tuyên truyền của chính quyền là nền tảng để sách động quần chúng lầm than. Dù là mị dân nhưng tác động này thành công. Do đó, một phong trào quần chúng trong xã hội thành hình và chiếm mọi ưu thế trong sinh hoạt.

Phần III là trọng điểm của tác giả để giải thích về nguồn gốc của một chế độ toàn trị mà Đệ Tam đế chế của Đức và Bolchevik của Liên Xô là thí dụ.

Chế độ toàn trị thành hình trong một nhà nước dân tộc suy tàn, tình trạng vô chính phủ đi trước và một xã hội đại chúng bị phân hoá triệt để theo sau. Ngay khi nắm quyền Hitler đã ý thức về các hậu qủa của khủng hoảng xã hội này, nên tìm cách tiếp tục hủy diệt mọi sinh hoạt xã hội của người dân. Stalin, ngược lại, qua chủ trương xoá bỏ giai cấp cũng đi đến một tình trạng toàn trị tương tự.

Xã hội giai cấp suy tàn khởi đầu và biến dạng thành một xã hội đại chúng lầm than và vô tổ chức. Không có đại chúng tham gia, tất nhiên sẽ không có một phong trào độc tài. Đó chính là điều kiện tiên quyết cho việc hình thành một hình thức nhà nước mới. Nhưng phong trào này không có trong khuôn khổ bình thường của một sinh hoạt chính đảng hay hội đoàn theo hệ thống, mà là một tình trạng bạo loạn luôn biến động của buổi giao thời mà mọi người như cát bay trong gió: Đó là một đại chúng gồm có các cá nhân đầy lòng thù hận và nghi ngờ. Tình trạng thất nghiệp và lạm phát làm cho lý do tham gia chống Do Thái của giới bình dân lên cao.

Vai trò của trí thức sách động cũng quan trọng không kém. Đặc điểm chính là chính quyền tuyên truyền ý thức hệ giả tạo và khủng bố toàn diện xã hội. Cả hai kết hợp nhau tạo ra một tình trạng bất ổn thường trực. Cá nhân vừa không còn tự do và suy nghĩ, chỉ còn chấp nhận hợp tác với chế độ là cách cuối cùng.

Bà mô tả khá chi tiết các trại tập trung và cách huỷ diệt người Do Thái. Tất cả nạn nhân đều phải khuất phục truớc cách toàn trị vô nhân đạo. Đây chính là một lò sát sinh để thử nghiệm xem chế độ nhà nước độc tài được điều hành như thế nào và mức độ đối kháng của nạn nhân đến đâu. Giết người một cách có hệ thống bất kể là ai và như là một loại côn trùng hay là sinh vật thừa thải trong xã hội. Bà tố cáo là chế độ này đáng lý không thể xãy ra.

Kết luận có hai khía cạnh quan trọng. Một mặt, chế độ toàn trị đạt được quyền hành bằng cách tuyên truyền ý thức hệ giả tạo và khủng bố toàn dân tộc một cách vô nhân đạo, dùng con người để thử nghiệm về quyền lực đàn áp nhưng không nhận trách nhiệm về những bất công trước lịch sử.

Mặt khác, chế độ độc tài không thể tiêu diệt một dân tộc, một điều tất yếu vừa là nguồn hy vọng, nhưng nguy cơ này cần phải đối phó. Ý thức cá nhân trong tinh thần trách nhiệm chính trị là giải pháp. Dù quan điểm của người dân dị biệt trong mọi sinh họạt, nhưng khi tất cả đồng thuận tạo ra một nền tảng chính trị chung để xây dựng một xã hội trong tinh thần tự do, trách nhiệm, tương kính thì một hy vọng cho tương lai tốt đẹp hơn có thể khởi đầu, mà quan trọng nhất là khi mà con người xem bình đẳng là quyền duy nhất và không còn phân biệt theo chủng tộc, giai cấp, hoặc đảng phái. Nếu đạt được lý tưởng này, chúng ta sẽ thực hiện chủ nghĩa cá nhân tự do với những lý tưởng cao cả, tôn trọng phẩm giá của mỗi con người và chịu trách nhiệm chung cho tất cả.

Nhận xét

Ấn bản Đức ngữ là một tác phẩm khó đọc và bị chỉ trích với nhiều lý do. Về mặt hình thức, tác phẩm thiếu cân đối vì nhiều luận điểm thiếu bằng chứng để thuyết phục. Có quá nhiều chú giải không theo chuẩn mực dẫn luận thông thường, nhiều chổ dài hơn bản văn.

Vì nội dung sách được tăng bổ nhiều lần, nên bố cục không còn mạch lạc như ấn bản Anh ngữ. Các chương cuối sách là những tiểu luận chuyên biệt hơn là kết luận cho toàn tác phẩm. Giới phê bình nghiêm túc không thể phân loại tác phẩm này vào lĩnh vực nào, triết học, sử học hay chính trị học hay là một khảo cứu liên khoa đúng nghĩa và cũng không là một cáo trạng cá nhân.

Tác phẩm thể hiện một cá tính độc lập và một phong cách tư duy độc đáo của một triết gia dấn thân trong vấn đề tố cáo tội ác của một nhà nước độc tài trước bất công của lịch sử. Đó là tấm gương can đảm mà người Việt quan tâm thời cuộc cần so chiếu.

Tóm lại, tuyên truyền sách động về một ý thức hệ giả tạo và khủng bố toàn dân trong một đất nước đang suy tàn là nguyên nhân thành hình của chế độ. Do bất lực nội tại của chế độ mà tiến trình tự hủy phát sinh tất yếu. Nhưng chế độ độc tài không thể hủy diệt toàn thể dân tộc và ý thức hồi sinh một thể chế dân chủ và cộng hoà của toàn dân là một hy vọng khởi đầu. Các lý giải này của Hannad Arendt về nhà nước độc tài của Đức và Nga trước đây vẫn đúng cho chế độ của ĐCSVN hiện nay.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.