Hôm nay,  

Hát-Hát, Ô-Ô...

04/08/201500:00:00(Xem: 7151)

Theo dõi kết quả đại nhạc hội Cám Ơn Anh Thương Binh kỳ 9 vừa qua, chúng ta nhận thấy giới trẻ trong cộng đồng người Việt tỵ nạn CS nói chung, và thế hệ thứ hai thuộc gia đình H.O nói riêng, đã đóng góp rất nhiệt tình, đó là một tín hiệu rất mừng, tuổi trẻ đã tiếp bước cha ông trong nhiều lãnh vực trong đó có công việc đền Ơn, đáp Nghĩa.

Khi tham gia vận động cho đại nhạc hội theo lời kêu gọi của lão Bà-Bà Hạnh Nhơn, chúng tôi nhận thấy đại đa số anh em H.O, qua 25 năm chăm chỉ cày bừa thì đã tới lúc “chí tuy còn mong đóng góp, nhưng sức không kham nổi đoạn đường dài”. Chúng tôi đuối rồi, dù cố gắng lắm cũng chỉ góp một chút... gọi là của ít lòng nhiều, nhưng được an ủi là đã có thế hệ hai tích cực tham gia, các cháu đã nhiệt tình đóng góp gấp 5, 10, 20 lần nhiều hơn cha ông.

Để chứng minh điều này là có thật, chứ không phải nói bâng quơ, “nổ” cho đẹp lòng nhau nên chúng tôi xin phép được nêu một số quý danh cụ thể để tượng trưng (con cháu gia đình của Võ Bị; nói riêng), như con của các Alpha Đỏ: Mai Văn T…(1000), Hồng Khắc Tr… (1000), Tô Liên Quan K.. (1000), Đỗ Tự C.. (500), Nguyễn Ch.. (500), Nguyễn Đ.. (300), Tô Yến Th.. (700), Võ Quang G.. (300), còn nhiều nữa...

Tôi hỏi cháu Quan Văn Lộc tại sao cháu lại đóng góp nhiều hơn các ông, cháu nói:

_ Thưa ông, gia đình cháu được sang Mỹ theo diện H.O vì bố cháu bị tù VC 7 năm. Nhờ theo diện H.O mà nay cháu có sự nghiệp, chúng cháu xin đóng góp, gọi là một chút để nhớ ơn các ông thương binh, nhớ ơn “H.O”. Thế H.O là gì hả ông?

Bị thằng cháu hỏi ngược, tôi đâm ra ú-ớ, lâu quá rồi, đã 25 năm qua, kể từ ngày bước chân tới Mỹ năm 1990 theo diện H.O 1, tôi đã không có dịp nào được ngồi lại với “đồng H.O” để ôn chuyện cũ, nói chuyện hiện tại và nhiệm vụ tương lai, không được ai nhắc nhở nên tôi quên cả cái nghĩa của chữ H.O. Mà đâu có cần thiết phải biết H.O là gì, chỉ cần đừng quên thân phận và bổn phận một H.O là đủ rồi.

Ông Tướng John W Wessey nói:

“To me, the term H.O is a badge of courage, service and sacrifice, and all those who fall within that context of the term are among the true heroes of our time”.

Một ông tướng nước Mỹ đã gọi những anh em H.O là “heroes”, dù vì bất cứ nguyên nhân nào, nhân dân và chính quyền Mỹ đã đón nhận những “heroes” này ra khỏi địa ngục trần gian là một nghĩa cử cao quý, USA đã cho chúng tôi được hít thở không khí tự do.

Không ai muốn rời bỏ quê hương mình, chúng ta đã nằm lại cho tới giờ thứ 25, dẫu không thành công thì cũng vẫn là người Việt Nam, nhưng lũ quỷ đỏ lại đòi “cải tạo” chúng ta, chúng “cải tạo” chúng ta thành loài “thủy tổ” của chúng chăng? Thực tế chúng đã biến chúng ta thành những bộ xương biết đi, chúng bịt mồm, bịt mũi không cho ta thở!

Mất nước là mất tất cả, mỗi người một hoàn cảnh, “người di tản thì buồn”, người ở lại thì thúi ruột trong lao tù CS. Những năm tháng khổ sai, kéo cày thay trâu, trâu còn có cỏ để nhai lại, còn tù thì nhai đá, vì chúng ví von: “với sức người sỏi đá cũng thành cơm”! Ai đã từng nhai cơm trong tù thì thì phải công nhận là có sỏi đá thật, không cần ví von.

Thoát nhà tù nhỏ, ra nhà tù lớn, mãi mãi chúng ta vẫn là tù trên chính quê hương mình nên đã có biết bao nhiêu người đi vào chỗ chết để tìm sự sống, tìm đường vượt biển vượt biên, những ai không “chỉ”, không “cây” thì đành nhắm mắt qua ngày: “Đầu đường thiếu tá vá xe, cuối đường trung tá bán chè đỗ đen”, thực tế còn bi đát hơn nhiều!

Ra tù năm 1985, trước khi có chương trình H.O vào năm 1990, thì trong 5 năm sống trong chờ chết, tôi đã tham dự “hàm thụ” nhiều chuyến vượt biển, vượt biên. Bất cứ ai rủ đi tôi đều nhận lời, nhưng để được lên ghe lên tầu thì điều kiện đầu tiên là tiền đâu, dù chỉ là một “chỉ” nên thôi đành chờ một phép lạ, đang chờ...chết thì phép lạ đã đến vào năm 1990:

Chương trình H.O ra đời.

Để được nhận là H.O thì điều kiện đầu tiên là phải có 3 năm “đại hộc máu”. Điều kiện thứ hai, nghe có vẻ khôi hài, điều kiện là không có một đồng xu dính túi, vì đại đa số, ai có tiền thì đều đã tìm cách vượt biên.

Thưa các anh chị H.O

Trước khi được gọi là H.O thì chúng ta chỉ cựa quậy trong nhà tù lớn, hoàn toàn bị cô lập trong cái hố “Xuống Hố Cả Nút”! Một tên “Hồ Nhi” thuộc dạng con cháu già Hồ ở thủ đô tỵ nạn CS này đã nhi nhô chửi bố hắn là HO rằng: “H.O là đồ phế thải” !!!

“Hồ Nhi” đã nói đúng 1/2, quả thật trước khi trở thành H.O, chúng ta bị phế thải trong XHCN, nhưng nó đã sai khi thành phần H.O đến USA thì khí thế chống cộng và tay sai gia tăng khiến chúng trốn chạy và con cháu H.O đã thành công và góp công cho nước Mỹ rất nhiều.


Chúng ta, những H.O, không phải là phường tha phương cầu thực, mà là tỵ nạn CS nên nhiệm vụ ưu tiên là chống cộng và diệt tay sai, sau mới nói đến sự thành công trên đường học vấn của con em chúng ta. Không ai có thể kể hết các danh vị đại học, nghề nghiệp và chức vụ cao cấp trong dòng chính của các con cháu H.O, nhưng đó là chuyện bình thường để góp công, trả ơn làm đẹp quê hương thứ hai, mỗi gia đình H.O đã tự cảm nhận được điều hãnh diện này.

Nếu không là H.O, giờ này chúng ta và con cháu chúng ta đã ra sao? Hãy nhìn vào cuộc sống anh em thương (phế) binh thì có câu trả lời ngay. Vì vậy: “Uống Nước Nhớ Nguồn”, xin nhớ cho chúng ta là thành phần H.O.

Quả thật đã có một số quên cái gốc H.O của mình mà tìm về quê hương cũ để hưởng thụ với tiền “già”, tiền trợ cấp! Quả thật đã có một số quên cái gốc H.O mà quên luôn nhiệm vụ... Chúng ta nên làm gì để nhắc nhau: “vui xuân chớ quên nhiệm vụ”.

Các trung niên, lão niên tổ chức “hấp hôn” để đời sống vợ chồng như lúc còn mới. Các tu sĩ tổ chức những buổi lễ bạc, vàng, kim cương để tự nhắc mình sao cho đời sống tu sĩ được tốt hơn. Các hội đồng hương, quân binh chủng, quân trường, học đường thường tổ chức hằng năm những ngày họp mặt để duy trì và tăng thêm tình thân ái v.v... vậy thì tại sao đại gia đình H.O chúng ta không có một ngày họp mặt sau 25 năm để cùng nhau ôn chuyện đơn vị cũ, nhà tù xưa.

Mỗi người trong chúng ta thường tổ chức sinh nhật, lớn nhỏ tùy hoàn cảnh để nhắc đến ngày sinh, nhớ công ơn sinh thành của cha mẹ. Ngày sinh quan trọng, nhưng ngày “tái sinh” mới đáng nhớ, chúng ta thường nghe câu: “MỪNG NHƯ ĐƯỢC SỐNG LẠI”, hoặc: “như được đẻ lần thứ hai”. Nếu xét theo hoàn cảnh thực tế trước và sau, chết trong XHCN và sống ở USA thì quả thật đại gia đình H.O chúng ta đã được TÁI SINH. Vậy mà đã 25 năm qua, chúng ta chưa một lần cùng nhau họp mặt, kỷ niệm ngày “tái sinh”

H.O họp mặt không phải để gia tăng thêm đường, muối, mỡ, bột ngọt qua các bữa ăn, quá nhiều rồi, mạch máu đang căng cứng, dạ dày đã bảo hòa... H.O họp mặt không phải để nghe rên rỉ: “60 năm cuộc đời”, “vui lên đi, chiều hôm tối rồi”, “100 phần trăm em ơi”...

H.O họp mặt để:

_Chúc mừng nhau trong ngày kỷ niệm “tái sinh”. Nếu như “Happy Birth Day” để nhớ công ơn sinh dưỡng cha mẹ, thì H.O cũng phải có “Happy Tái Sinh Day” để nhớ công ơn những ân nhân đã giang tay, mở rộng vòng tay đón chúng ta, đó là nước Mỹ và người Mỹ gốc Việt, những người đã đi trước.

_ Để nhắc cho nhau luôn nhớ chúng ta là đại gia đình H.O, mà H.O thì có bổn phận và nhiệm vụ như thế nào đối với đất nước Hoa Kỳ, quê hương Việt Nam và đặc biệt là nhớ đến các đồng đội của chúng ta, họ đang là thương (phế) binh trong cái ngục tù CS. Trước kia, các anh em ấy và chúng ta cùng sát vai nhau, dựa lưng vào chiến hào và rồi họ bỏ lại trên chiến trường cái tay, đôi chân, con mắt để chúng ta thêm ngôi sao và những ngôi sao vàng, bạc, đồng và không bao giờ những anh em ấy ĐƯỢC LÀ H.O.

_ Để mỗi H.O hãy so sánh cuộc sống T(P)B tại quê nhà và H.O tại Mỹ mà có cái nhìn lạc quan ơn, rộng rãi hơn, mở rộng bàn tay hơn đối với những người anh em từng sống chết với chúng ta và họ đã chết, đang chết, sắp chết, còn chúng ta sống, đang thừa đủ thứ, thừa hơi để “nổ”, nhưng lại thiếu...

_ Để nhắc cho con cháu trong đại gia đình H.O biết rằng các cháu đến USA bằng con đường nào, để các cháu biết sự thành công về học vấn và sự nghiệp do đâu vì đâu để mà: “vui hưởng chớ quên nhiệm vụ”, nhớ ơn nước Mỹ và công ơn cha mẹ.

_Phục thay những con cháu của gia đình H.O đã tình nguyện theo nghiệp cha chú mà gia nhập quân đội dòng chính, đã, đang chiến đấu trên các chiến trường khốc liệt và đã hy sinh.

_Phục thay các cháu đã mở rộng vòng tay, đóng góp nhiều lần hơn cha chú trong các chương trình đại nhạc hội Cám Ơn Anh T(P)B do hội H.O tổ chức, ước mong các cháu hãnh diện về việc các cháu đã làm và nên khuyến khích đồng nghiệp, bạn hữu cùng tham gia.

Trong những ngày sắp tới, đại gia đình H.O sẽ tổ chức ngày họp mặt kỷ niệm 25 năm ngày tái sinh, ước mong chúng ta cùng đến để chúc sức khỏe cho nhau và nhắc nhau những việc phải làm và cần làm.

Nếu không đến tham dự ngày kỷ niệm 25 năm thì chúng ta sẽ không bao giờ có ngày kỷ niệm 25 năm lần thứ hai.

Cầu xin và ước mong chúng ta hãy gác sang một bên mọi bất đồng để cùng hòa mình với nhau trong ngày Đại Hội H.O, vì chúng ta cùng là anh chị em ruột thịt trong đại gia đình H.O.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.