Hôm nay,  

Kim Vân Kiều Ca

02/09/201506:25:00(Xem: 10404)

Kim Vân Kiều Ca
.
Phó phẩm Đoạn Trường Tân Thanh
thế kỷ 19 ở vùng Nam Kỳ Lục Tỉnh.
 
Nguyễn Văn Sâm (giới thiệu và phiên âm lần đầu tiên 2015)

 
blank

Bản Kim Vân Kiều Ca nầy (Thư Viện Quốc Gia HN ký hiệu R560, trang 1-4) và bản Túy Kiều Phú (tài liệu chép tay NVS sưu tầm) cùng nhiều bài văn ngắn khác liên quan đến đề tài Thúy Kiều thể hiện ảnh hưởng sâu đậm của Đoạn Trường Tân Thanh tới dân chúng miền Nam cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Tôi gọi loại nầy là phó phẩm của Truyện Kiều. Kiều là tác phẩm có quá nhiều phó phẩm, Vịnh Kiều Tập Tự của Chu Mạnh Trinh, (chép chung trong sách Sãi Vãi, ký hiệu AB. 383) là một thí dụ nhỏ. Căn cứ trên số phó phẩm đó ta thấy rõ ràng giá trị của ĐTTT và thấy ngay ảnh hưởng vô vàng sâu đậm trong dân gian cũng như học giới của miến đất mới phía Nam. Về sau, nầy mặc dầu có những phó phẩm bằng quốc ngữ như thơ Hoạn Thư Bắt Thuý Kiều, của Lê Hoằng Mưu hay Thúy Kiều Án (của ?) và những thơ vịnh Kiều khác nhưng ảnh hưởng không bằng hai bài văn Nôm nói trên.

Giải thích chuyện nầy tôi cho rằng những từ ngữ Nam Kỳ Lục Tỉnh đã gây cảm giác trong lòng người đọc như sự bàng hoàng xúc động của đứa con đi xa  lâu ngày nay trở lại làng quê, bồi hồi xúc động trước bụi tre đầu ngõ có lúc mình đã sợ ma, con đường đê gập ghềnh vẫn như xưa thấp thoáng những ngôi mộ ông bà làng nước, con rạch nhỏ từng tắm sông quậy nước khi chưa biết mắc cở, cái giếng làng tụ hội khi mới lớn… Tất cả hình ảnh trên nhờ những từ ngữ đặc thù kia mà hoạt cảnh của quá khứ kéo trở về trong trí: nhà trò, một đò, mà tế Đạm Tiên, còn đương ngần ngại, trên quan dưới lại, dọc đàng, phối hợp cùng chàn, vơi tát, khát mặt thung huyên, phản trá, dắt díu nhau... không thể kể hết.

Bóc đại cầu âu một câu nào đó như:

              Bạc tiền đâm lẽ phải có là bao!

hoặc:     Tóc da coi yểu điệu cũng nên dường.

hay:

Chàng có quyết cương thường đại đạo,

Trình song thân định liệu nhơn duyên.

Giao phím đàn với mảnh gương nguyền,

Bỗng nghe tiếng đỗ quyên gáy giục.

Sẽ thấy những từ ngữ rặc ròng Nam kỳ hoặc ngay cả tiếng dùng chung cho cả nước đi nữa nhưng cấu trúc câu theo thế cách nào đó mà hương vị Miền Nam vẫn hiện diện. Tìm hiểu  kỷ lưỡng cấu trúc đặc biệt đó thì nhiêu khê như phân tích một mùi hương. Khó dàng trời biển.

Quí cụ xưa chép tay bản Nôm nào đó thường là chép từ bản trong trí nhớ mà xưa mình được học thuộc lòng, nên nhiều khi có những bất cập. Thí dụ dư câu 208, dư chữ [tiền] ở câu 206, người đời sau đọc có thể tự ý sửa hay cẩn thận hơn chỉ là ghi nhận.

Sau bài Kim Vân Kiều Ca nầy chúng tôi sẽ giới thiệu bài Túy Kiều Phú hay hơn, dài hơi hơn mà tôi ngờ là Kim Vân Kiều Ca xuất hiện trước, người đời sau nhân đó có hứng khởi viết Túy Kiều Phú.

Xin mời đọc bản phiên âm quốc ngữ …

 

 

(1a)    Xem truyện cũ trào Minh Gia Tĩnh,                   01

Có hai người con gái họ Vương.

Thúy Vân kia mày mặt nở nang,

Chị Kiều nọ khôn ngoan sắc sảo.

Gẫm từ thuở mai hoa phát tảo,                      05

Tóc da coi yểu điệu cũng nên dường.

Đã lãu thông Kinh, Sử văn chương,

Lại gồm biết cầm kỳ thi họa.

Thanh Minh tiết rủ nhau đi viếng mả,

Chật giữa đường xa mã nghinh ngang.           10

Xứ xứ đều quang rạng lửa hương.

Thấy một mộ bên đường không kẻ đắp.

Kiều trông thấy sa tâm tuất cập[1],

Hỏi Vương Quan cho tỏ sự duyên do.

Mồ Đạm Tiên xưa ấy nhà trò,                        15

Hồng nhan cũng một đò trong cuộc thế.

Kiều nghe biết bỗng liền sa lệ,

Đốt tuần hương mà tế Đạm Tiên.

Chẳng ai ngờ đồng bịnh tương liên,

Khoảnh khắc đã đưa tin thi thập thủ.             20

Sổ đoạn trường căn do tự đủ,

Kiều ngâm rồi khủng cụ biết bao.

Buổi hoàng hôn trời đã xế chiều,

Vương Quan giục hai Kiều trở lại.

Trong việc trước duyên trời đưa lại,               25

(1b)    Gốc phù dung gặp gã Trọng lang,

Tạ từ rồi khách khách lai hàng,

Nào ai biết lòng chàng ra có dục.

Thuê nhà chỗ đông lân trọ học,

Ngày ngày thường chúc mục đông song.                  30

Việc chẳng qua sự bởi Thiên công,

Lạc thoa ấy tơ hồng định trước.

Lấy của ấy làm tin cẩn ước,

Xui chàng Kim bắt được đem về.

Trước án tiền ý hỡi tê mê,                               35

Nhác nghe tiếng bên kia xin lại.

Tay cầm thoa còn đương ngần ngại,

Dựa án thư giấc hỡi mơ màng.

Lắng tai nghe vẳng vẳng tiếng nàng,

Xếp khúc họa cung đàn xang cống.                40

Hỏi hát quá xui nên lòng động,

Lúc mê man toan giở giọng lần khân.

Nể lòng chàng vâng chịu ân cần,

Xin thương lấy chút thân bồ liễu.

Chàng có quyết cương thường đại đạo,           45

Trình song thân định liệu nhơn duyên.

Giao phím đàn với mảnh gương nguyền,

Bỗng nghe tiếng đỗ quyên gáy giục.

Cung đờn dạo còn đương dở khúc,

Thơ nhà chàng, hiếu phục nghiêm thân.                   50

Kẻ ra về trong dạ tần ngần,

Người lên ngựa bâng khuâng lòng khoải khoắc.

Lúc tai họa dắt nhau vào lối chật,

Cả hai nhà cùng mắc nạn oan gia.

(2a)    Thằng bán tơ vu cáo gian tà,                                     55

Cho đến nỗi ông già mắc nạn.

Đáo tụng đình cửa nhà muôn vạn,

Lúc sai nha do dác[2] cũng như không,

Chữ hiếu trung trông thấy đau lòng,

Hai tay trắng sao xong lẽ phải[3].                     60

Việc chẳng qua trên quan dưới lại,

Bạc tiền đâm[4], lẽ phải có là bao!

Đạo làm con để thế trông vào[5],

Cơ tạo hóa khiến sao vâng vậy.

Bán mình đã tờ giao, hàng lấy[6],                      65     

Đem đầu vào lễ chú Đề Chung.

Tội oan gia rửa sạch như không,

Việc nhà lại thong dong như trước.

Ngoảnh ra thấy Giám sanh đàng trước,

Chường song thân sau trước cụ trần[7].             70

Duyên chàng Kim giao lại em Vân,

Khách địa mặc mưa Tần gió Sở,

Ngoảnh ra thấy Giám sanh lên ngựa,

Đỗ xe loan đi trả nợ bồng tang,

Đến dọc đàng phối hợp cùng chàng,               75

Sáng mai thấy cửa hàng sai đón rước.

Thấy hai ả cài trâm giắt lược,

Đứng đôi bên hữu tượng Bạch Mi Thần.

Thấy cơ đồ[8] trong dạ tần ngần,

Lại một mụ vắt chưn ngồi ghế chéo[9].              80

Phận ti tiểu đã đành cam chịu,

Lại làm ra cách điệu xuân huyên[10].

(2b)    Khi sa cơ mới phải tòng quyền,

Tiểu đao đấy nàng liền tự tiện.

Trong mê thấy Đạm Tiên ứng hiện,                85

Bảo[11] hồng nhan còn vướng nạn sông Tiền.

Hễ bao giờ chị xuống giang biên,

Mới sạch nợ trần duyên từ đó.

Tú bà mới nhỏ to khuyên nhủ,

Khóa buồng xuân cho bỏ lúc phong trần.                90

Khi cô mình ngâm bức thơ thần,

Chẳng may gặp bất nhân thằng họ Sở.

Thơ tích việt an ngày chạy ngựa,

Thượng sách đem làm nhở hồng nhan.

Vì Sở Khanh nên đóa hoa tàn,                       95

Mà Mã Giám là gian rồi mới biết.

Gặp Thúc sanh cửa nhà lẫm liệt,

Đủ nghề chơi, nghe biết tiếng nàng.

Bốc lên làm ra mặt giàu sang,

Hỏi giá cũ bạc vàng đem chuộc lại.                 100

Tú bà tính cũng đà có lãi,

Dọn hoàn nàng giao lại cho chàng.

Chẳng ai ngờ nhân quả dở dang,

Nghiêm phụ lại chẳng thương đi kiện cáo.

Nhờ Lịnh Doãn quảng khai đại đạo,               105

Xin Thúc ông kiện cáo ích gì.

Xử hòa cho bái tạ đi về,

Còn một nỗi chánh thê bất tháo[12],

Đêm ngày giục Thúc sanh qui cáo,

Phận tiểu tinh ngại có tương lai?                    110

Chẳng ai ngờ nỗi ếch bưng tai,

(3a)     Cho đến nỗi lâu đài tan tác,

Thây vô chủ đem vào thay khác,

Thuốc mê đâu bắt uống mơ màng.

Như đàn bà thế ấy mới gan,                                     115

Rồi mới biết nhân gian địa ngục.

Một năm nữa, lại về, chàng Thúc,

Chàng nói rằng hiếu phục vừa xong.

Hoạn Thư khen chí hiếu rất lòng,

Truyền lấy rượu luận công gia tưởng[13].          120

Đuổi  nàng xuống thị hầu dưới trướng,

Hoạn Thư ngồi tiệc thượng cười thầm.

Tính làm cho bỏ lúc đau ngầm,

Chén rượu chuốc phải cầm uống gượng.

Giả say quá làm điều gục xuống,                    125

Hoạn Thư liền thét mắng con hoa.

Diệu Thiền kia còn muốn chồng ta,

Khuyên chẳng cạn, khôn qua tiến trượng[14].

Thương mà sợ phải ngồi uống gượng,

Trông mặt chàng hình trạng ủ ê.                     130

Hoạn Thư ngồi trướng rũ màn che,

Thấy hai mặt e dè khắc túc.

Giao quyền bính lại cho chàng Thúc,

Toan làm cho sỉ nhục cả hai người.

Có lẽ đâu dưới đất trên trời,                                     135

Thôi cũng nghĩ cho ra ngoài Quan Âm Các.

Cũng rắp chí ra tu hành lạc,

Chẳng ai ngờ chàng thoái thác liền ra,

Còn đương than thở gần xa,

(3b)    Chợt[15] trông thấy giày bà bước lại.              140

Đêm nằm nghĩ biết bao sợ hãi,

Cửu lưu thần ắt hại lâm thân.

Sẵn mọi đồ chuông khánh kim ngân,

Thầm dắt để hộ thân chóng tựu.

Nửa đêm thấy chúng tăng an ngủ,                            145

Cất mình đi tầm thú phương xa.

Đem đầu vào lạy Tam Hợp sư già,

Nộp chuông khánh để mà ký thác.

Chẳng may ra gặp con mụ Bạc,

Chính nó là một tổ bợm già.                                    150                      

Bảo Sư rằng chuông khánh Hoạn gia,

Sư dung túng ắt là tai họa.

Ai ngờ nó dụng tâm phản trá,

Đem về nhà ép gả Bạc sanh.

Dắt díu nhau đem bán Lâm Thanh,                155

Hay đâu cũng lầu xanh một tổ.

May lại gặp anh hùng cứng cổ,

Nghiêng góc trời cờ mở trống giong.

Vả Từ công lẫm lẫm uy phong,

Sức thao lược xương đồng da sắt.                            160

Nghe thấy tiếng Thúy Kiều tài sắc,

Thoắt nhìn qua nét mặt quá ưa.

Hỏi trước sau Kiều phải trình thưa,

Sai bộ tốt phất cờ đến rước.

May gặp hội duyên ưa cá nước,                      165

Nợ hồng nhan từ trước sạch sanh.

Xuống khấu đầu nhờ cậy oai linh,

(4a)    Giả ân oán bất bình phen lưu lạc.

Khi ân oán bể hồ vơi tát,

Phút động lòng khát mặt thung huyên[16],            170     

Muốn sao cho trung hiếu vẹn tuyền,

Cho phỉ chí thiền quyên sở nguyện,

Xem chàng giở những đồ chinh chiến,

Như Hoàng Sào, Ô Viện có ai khen!

Đứng Thánh quân lẫm lẫm uy quyền,                 175

Ai ai cũng đội trời trên cả.

Sao bằng chịu từ bi hỷ xả,

Hội Hoàng triều chức cả có ai đương.

Tính thiệt hơn quyết chí hồi đường,

Cho đến nỗi chiến trường bỏ lại.                          180

Hồ Tôn Hiến chướng vô sở ngại

Lập gian mưu sát hại Từ công,

Thâu linh tiền, một tiếng súng đồng,

Ai ai chẳng hãi hùng quan Đổng?

Mê binh hiển để nàng vọng hống,                        185

Tiếng Hồ công nhứt thống  mỗi danh.               

Đến hạ công[17] tướng sĩ trong thành,

Giả say tỉnh ép tình mỹ nữ.

Rạng ngày mai tỉnh ra biết sợ,

Ép nàng vào làm vợ Thổ quan.                              190

Sẵn xe loan rước thẳng xuống thoàn,                 

Hỏi mới biết sông Tiền là đấy.

Hỏi Đạm Tiên có chờ ta đấy,

Hẹn cùng ta rước lấy ta về.

Nói dứt lời nàng quyết một bề,                              195

(4b)    Theo dòng nước trở về quê trước.                    

Như thế ấy mới gan thao lược[18],

Rửa sạch mùi ô trược[19] mới xong,

Dưới dòng sông ghi chữ tình thâm,

Ai ai cũng hương chìm đáy bể,                               200

Thổ quan sợ biết sao mà kể.

May gặp người hiếu để tiên tri.

Sư rằng song chẳng hề chi,

Thuê thuyền trực dòng sông đến rước.

Thúy Kiều hỡi còn lòa bóng nước,                         205

Vãi Giác Duyên bái tạ Phật [tiền] đường.           

Vợ chồng Vân với cả chàng Vương,

[Đem nhau đến sông Tiền Đường sám hối.]

Bên kia sông lập đàn tràng sám hối,

Bài vị đề hương khói ngạt ngào.                             210

May gặp khi vãi Giác đi vào,                                

Nói một tiếng cả nhà mừng rỡ.

Ai ai cũng quá vui mất sợ,

Mừng cho nàng sạch nợ bồng tang.

Dắt díu nhau đến lạy Phật đường,                           215

Tạ Giác Duyên, cố hương trở lại.                          

Như nàng đủ nhân trung hiếu ngãi,

Nỗi chàng Kim nghĩ lại tình xưa.

Chẳng quản chi hoa thải hương thừa,

Sum hợp lại một nhà vinh hiển.

Như thế ấy lấy trong cổ truyện,                              221

Dẫu dở hay lấy đấy làm ghi.

 

 

Kiều lục chung (Hết)

Nguyễn Văn Sâm phiên âm

tại Victorville, CA xong ngày 10 Aug. 2015

 

 


[1] Sa tâm tuất cập 沙心 恤及: Đem lòng thương xót.

[2] Do dác 遊覺: xét hỏi, điều tra.

[3] Không tiền thì cũng chẳng có lẽ phải.

[4] Diễn ý câu: Nén bạc đánh toạt tờ giấy!

[5] Làm con sao cho người đời (thế) không chê cười.

[6] Thân nàng Kiều lúc nầy như món hàng, khi bán rồi thì phải giao.

[7] Cụ trần 具陳: Giải thích, trình bày.

[8] Thấy cơ đồ: Thấy sự việc.

[9] Ghế chéo: Có thể hiểu là ghế xếp, từ ghế xếp thấy trong tự điển của HTC. Cũng có thể hiểu ngồi ghế chéo là ngồi chéo ghế, ngổi trên một phần nhỏ của ghế.

[10] Làm bộ mẹ.

[11] Trong truyện Kiều, Đạm Tiên báo mộng biểu rằng… Bản Nôm câu nầy thiếu chữ, người đọc trước thêm chữ người 𠊚 có lẽ lầm với chữ bảo 保.

[12] Chánh thê bất tháo 正妻不造: Chưa thông đạt/tri cho vợ lớn.

[13] Gia tưởng 嘉奬: Khen thưởng.

[14] Không qua tiến trượng 坤戈進杖: Không khỏi bị đòn.

[15] Trong câu nầy thì dùng chợt đứng trước động từ. Khi nói ‘chợt mưa chợt nắng bởi vì đâu…’ cũng là dùng nắng mưa như động từ’.

[16] Khát mặt thung huyên 渴𩈘椿楦: Nhớ đến cha mẹ.

[17] Đến hạ công 旦賀功: Tới lúc ban thường. Chữ đến 旦đã viết lầm thành vả 且.

[18] Chữ thao lược 韜畧 đây như là không được ổn.

[19] BN viết ô thước 烏鵲. Nghĩ là ô trược. Xin chất chính!

.
Ghi chú của Việt Báo: GS Nguyễn Văn Sâm cũng vừa phiên âm và chú giải “Tỉnh Mê Một Cõi” (tức Hứa Sử Truyện), một tác phẩm truyện thơ chữ Nôm ấn hành thành 2 tập, trong đó GS Trần Ngọc Ninh giới thiệu và nhận định, Cư sĩ Nguyên Giác viết Lời Bạt. Sách vừa do Viện Việt Học ra mắt (https://vietbao.com/a242334/ra-mat-tinh-me-mot-coi-truyen-tho-nom-the-ky-18) . Tác phẩm 2 quyển này, có thể mua trọn bộ giá 30 USD (bao gồm cước phí trong nội địa Hoa Kỳ); xin liên lạc tác giả: Nguyễn Văn Sâm, email: [email protected] .
.
,
.
.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngược lại, những biến cố dồn dập đủ loại trong COVID-19 mở ra cuộc đấu tranh chính trị mới: đòi quyền được sống còn, có thuốc trị cho tất cả, đi lại an toàn, đó là một cái gì thiết thực trong đời sống hằng ngày và không còn chờ đợi được chính quyền ban phát ân huệ; nó khiến cho người dân có ý thức là trong các vấn đề nội chính, cải tổ chế độ là cần ưu tiên giải quyết. Người dân không còn muốn thấy vết nhơ của Đồng Tâm hay tiếp tục qùy lạy van xin, thì không còn cách nào khác hơn là phải có ý thức phản tỉnh để so sánh về các giá trị tự do cơ bản này và hành động trong gạn lọc. Tình hình chung trong việc chống dịch là bi quan và triển vọng phục hồi còn đấy bất trắc. Nhưng đó là một khởi đầu cho các nỗ lực kế tiếp. Trong lâu dài, dân chủ hoá là xu thế mà Việt Nam không thể tránh khỏi. Cải cách định chế chính trị và đào tạo cho con người để thích nghi không là một ý thức riêng cho những người quan tâm chính sự mà là của toàn dân muốn bảo vệ sức khoẻ, công ăn việc làm
Trong vài thập niên vừa qua, giải Nobel Hòa Bình và Văn Chương được xem là một tuyên ngôn của ủy ban giải Nobel về các vấn đề thời cuộc quan trọng trong (những) năm trước và năm 2021 này cũng không là ngoại lệ. Giải Nobel Văn Chương năm nay được trao cho nhà văn lưu vong gốc Tazania - một quốc gia Châu Phi, là Abdulrazak Gurnah "vì sự thẩm thấu kiên định và bác ái của ông đối với những ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân và số phận của những người tị nạn trong vực sâu ngăn cách giữa các nền văn hóa và lục địa". Cũng vậy, giải Nobel Hoà Bình đã dành cho hai ký giả Maria Ressa của Phi Luật Tân và Dmitry Muratov của Nga "vì những nỗ lực bảo vệ sự tự do ngôn luận, vốn là điều kiện tiên quyết cho nền dân chủ và sự hòa bình lâu dài". Ủy ban Nobel Hòa Bình Na Uy còn nói thêm rằng, "họ đại diện cho tất cả các ký giả đang tranh đấu cho lý tưởng này, trong một thế giới mà nền dân chủ và tự do báo chí đang đối mặt với những điều kiện ngày càng bất lợi" và cho "nền báo chí tự do, độc lập
Sau đó, sau khi “phát khóc” và lau nước mắt/nước mũi xong, bác Hồ liền thỉnh ngay bác Lê về thờ nên mới có Suối Lê Nin (với Núi Các Mác) cùng hình ảnh – cũng như tượng đài – của cả hai ông trưng bầy khắp mọi nơi, để lập ra một tôn giáo mới, thay thế cho Phật/Chúa/Thánh Thần/Ông Bà/Tiên Tổ ... các thứ.
Sự nghiệp chính trị của đại đế Nã-Phá-Luân chẳng liên hệ gì nhiều đến Trung Quốc nên không biết tại sao ông nổi hứng tuyên bố một câu bất hủ mà giờ này có giá trị của một lời tiên tri “Hãy để Trung Hoa ngủ yên bởi vì khi tỉnh giấc nó sẽ làm rung chuyển thế giới.” Vào tháng 03/1978 có một sự kiện ít được biết đến nhưng bắt đầu lay thức gã khổng lồ Trung Quốc khi một hợp tác xã nông nghiệp ở Phúc Kiến xin phép được giữ lại phần sản xuất vượt chỉ tiêu để khuyến khích nông dân hăng hái làm việc. Đây là giai đoạn trước Đổi Mới nên viên thư ký đảng bộ của hợp tác xã bị phê bình kiểm điểm. Chỉ 8 tháng sau đó vào cuối năm 1978 Đặng Tiểu Bình tuyên bố cải tổ và mở cửa nền kinh tế. Đề nghị nói trên của hợp tác xã được mang ra thử nghiệm với kết quả sáng chói nên viên thư ký đảng được ban khen.
Sau 10 năm ra sức Xây dựng, chỉnh đốn hàng ngũ để bảo vệ đảng không tan, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vẫn thừa nhận: ”Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" vẫn chưa được ngăn chặn, đẩy lùi một cách căn bản, thậm chí có mặt còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn, có thể gây ra những hậu quả khôn lường.”
Nếu mối quan hệ Trung Quốc-Hoa Kỳ là một ván bài, thì người Mỹ sẽ nhận ra rằng họ đã được một lá bài tốt và tránh khuất phục trước nỗi sợ hãi hay niềm tin vào sự suy tàn của Hoa Kỳ. Nhưng ngay cả một lá bài tốt cũng có thể thua, nếu chơi tệ. Khi chính quyền của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden thực hiện chiến lược cạnh tranh đại cường với Trung Quốc, các nhà phân tích tìm các phép ẩn dụ trong lịch sử để giải thích tình trạng cạnh tranh ngày càng sâu sắc. Nhưng trong khi nhiều người dựa vào sự khởi đầu của Chiến tranh Lạnh, thì một ẩn dụ lịch sử đáng lo ngại hơn là sự bắt đầu của Thế chiến thứ nhất. Năm 1914, tất cả các cường quốc đều mong rằng cuộc chiến Balkan lần thứ ba là ngắn ngủi. Thay vào đó, như nhà sử học người Anh Christopher Clark đã chỉ ra rằng, các cường quốc bị mộng du bước vào một trận đại chiến kéo dài bốn năm, phá hủy bốn đế chế và giết chết hàng triệu người.
“Căn bản đời sống của chúng ta là đi tìm sự hạnh phúc và tránh né sự khổ đau, tuy nhiên điều tốt nhất mà ta có thể làm cho chính bản thân chúng ta và cho cả hành tinh này là lật ngược lại toàn bộ suy nghĩ ấy. Pema Chodron đã chỉ cho chúng ta thấy mặt cấp tiến của đạo Phật.”
Năm 1964, anh Phạm Công Thiện được mời vào Sài Gòn để dạy triết Tây tại Viện cao đẳng Phật học vừa được mở tại chùa Pháp Hội (tiền thân của Viện Đại học Vạn Hạnh sau này), tôi được anh cho đi theo. Tôi nhớ anh đã dẫn tôi đến thăm Bùi Giáng vào một buổi chiều, trong một căn nhà ở hẻm Trương Minh Giảng, căn nhà rất ẩm thấp, chật hẹp, gần như không có chỗ cho khách ngồi.
Cố nhớ kỹ lại, tôi vẫn không nghĩ ra là tôi đã gặp thầy Phước An lần đầu vào dịp nào (dĩ nhiên là ở Vạn Hạnh, trong năm 1972, nhưng trong hoàn cảnh nào?). Chỉ nhớ rằng quen nhiều và thân với thầy lắm. Phòng 317 Nội Xá Vạn Hạnh là phòng ở của quý thầy trẻ, là những người tôi rất thân, và đây là một phòng mà tôi có thể ra vào bất cứ lúc nào.
Ba bà Mai kể trên thuộc hai thế hệ. Cả ba đều đã trải qua một kiếp nhân sinh mà “phẩm giá” người dân bị chà đạp một cách rất tự nhiên.” Nếu may mắn mà “CNXH có thể hoàn thiện ở Việt Nam” vào cuối thế kỷ này, như kỳ vọng của ông TBT Nguyễn Phú Trọng, chả hiểu sẽ cần thêm bao nhiêu bà Mai phải (tiếp tục) sống “với tâm thức khốn cùng” như thế nữa?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.