Hôm nay,  

Nghề Rèn

06/09/201522:16:00(Xem: 6018)
Nghề Rèn
 
VÕ HOÀNG

 

Hơn một tiếng đồng hồ rồi, Tư Huỳnh uống gần hết một bình trà mà than vẫn cứ cháy ngún ngún ở một góc lò. Thằng Mót vẫn chưa thấy tới. Hôm nay làm gì thì cũng phải rồi mấy cái lưỡi búa cho “thằng chả,” xong cái nợ đời, còn phải làm này làm nọ kiếm tiền nữa chứ!

Tư Huỳnh ngẫm nghĩ mà thấy mình vô phước, tưởng rằng làm thợ rèn vào thời buổi này dễ kiếm ăn, ai có ngờ nhiều việc phải làm không công, còn bị lằng nhằng khen chê.

Ở một góc lò, một đống ngùn ngụt nào là miểng bom, nhíp xe hơi, cọc sắt… Tư Huỳnh liếc xéo về phía đó, phát ngán. Tiền không ở đó mà chưa có giờ làm. Cả tuần loay hoay với mấy cái lưỡi cuốc “chưn tượng” làm cho Tư Huỳnh thấy rằng nghề của mình thật sự “chưa tới.” Không phải tại lửa, không phải tại nước sao nhiều cái bị nứt, chặt bỏ bớt xong rèn lại cũng bị nứt.

Hư, thường cho người ta là cái chắc, mà nhiều cái hư quá lấy gì mà thường, vì cuốc có đai, nhưng phải đai chưn tượng, không chưn tượng người ta không chịu. Tư Huỳnh không còn thấy hăng hái mấy trong cái nghề của mình, nhiều lôi thôi quá mà khó kiếm ăn.

Thằng Mót tới. Nó vừa đánh bò cạp vừa móc túi lôi ra bịch thuốc rê. Tư Huỳnh phì cười:

“Che mưa mà che bằng vải, cũng như không. Trời lạnh quá, mầy uống trà không?”

“Ừ, để đó tui, chú Tư.” Thằng Mót lột tấm lều vải ra khỏi người, lưng áo nó ướt một nửa phần trên. “Thứ này lâu thấm nước mà gió hổng bay, ‘đã’ hơn mủ chớ chú Tư!”

Lều vải “đã” hơn mủ, dao nhíp xe “đã” hơn dao cọc sắt, thuốc vấn “đã” hơn thuốc Vàm Cỏ, thằng này thì luôn luôn có cái này “đã” hơn cái kia. Tư Huỳnh với lấy một miểng bom nhỏ cào nhẹ bùn dưới gan bàn chân, chép miệng:

“Bữa nay ông Ba Sửu tới lấy mấy cái lưỡi búa, chút nữa mày cưa thêm hai khúc sắt làm luôn cho rồi, mai rảnh được làm cho người ta kiếm tiền.”

Thằng Mót lặng thinh. Nó không còn bực mình khi nghe Tư Huỳnh nhắc tới Ba Sửu nữa. Dưới mắt nó, “thằng chả làm lớn trong hậu cần mà chỉ được có cái tháo nhíp xe mười bánh bán cho lò rèn, rồi mượn làm giùm cái này cái kia…”

Dốc ngược ấm nước châm thêm vô bình tích, thằng Mót sực nhớ ra điều gì cần nói:

“Ờ, chệt Hón làm lèm phát, bán có tám trăm một cái hà chú Tư, chả còn nói là lèm của mình non lửa, mà mũi thì quá già, dễ gãy. Tui nghe tui tức mình.”

Tư Huỳnh nhìn thẳng vào mắt thằng Mót một lúc thì thở ra. Tự dưng mà thấy buồn ngủ trở lại. Phải chi nghĩ tới một số ít tiền sẽ được ngày hôm nay mà nghe thằng Mót nói tới vụ chệt Hón cũng rán mà làm, đàng này chút nữa Ba Sửu tới, cà kê đủ thứ chuyện từ chuyện hồi chín năm tới chuyện lập tổ hợp thợ rèn huyện, từ chuyện biển động chìm xuồng tới chuyện chệt Hón làm bộ đau không rèn giúp đồ hậu cần, rồi thỉnh thoảng “chỉ thị” thằng Mót dũa lại cạnh kia chút xíu, mài lại góc này chút xíu… Tư Huỳnh ngó ra ngoài, thầm mong đừng bao giờ thấy mặt Ba Sửu và thầm mong trời tối thật nhanh cho hết thật sớm ngày hôm nay.

Vậy mà làm xong cái đai búa đầu tiên thì Ba Sửu tới. Hắn dắt xe vào dựng tuốt phía trong lò rèn và để nguyên áo mủ ra ngồi trên sạp tre, hắt bỏ tách nước dư rót lại đó một ít, xong mới chào Tư Huỳnh:

“Mạnh giỏi anh Tư. Bữa nay thì chắc thế nào cũng xong đồ tui hén, tốt quá. Nghỉ tay chút đi, anh Tư, uống miếng trà mà. Mót, nghỉ mầy, làm nhiều quá không sợ đau sao?” Hắn uống một ngụm rồi nói luôn, “Mấy cái này chắc làm hơi lâu hả anh Tư, phải tối mới xong. Tôi chỉ ở đây được một chút rồi phải lên huyện có chuyện, để coi anh làm xong cái đầu ra sao đã, tui cho thêm ý kiến.”

“Ừ, ý kiến!” Tư Huỳnh buông búa đặt khối sắt hừng hực nóng trở lại lò, cười gượng:

“Bảo đảm, bảo đảm mà anh Ba, tối xong mà.”

Thằng Mót cũng thôi không kéo cưa nữa, nó ngồi bẹp trên miếng ván dầu, quẹt mũi nhìn chầm chập vào khúc sắt đang cưa dở nửa chừng, không nói gì cả. Tư Huỳnh gác một chân lên máng nước, ngửa cổ uống cạn tách trà:

“Cây lèm phát hôm trước xài được không, anh Ba? Tui ưng ý cây đó nhứt đó, nhíp xe mà!”

“Được thôi, hơi non lửa. Đáng lẽ anh trui thêm ít nước nữa, mới chặt tràm mà phải mài liền liền, gặp đước, bằng lăng dám cuốn mép lắm.”

Tư Huỳnh biết hắn nói đúng: “Đồ làm giùm nó vậy đó, hơi đâu tốn than trui cho tới!”

Ba Sửu xếp hai chân lên sạp, cao giọng:

“Nhu cầu lèm phát rồi đây tăng lên nhiều lắm, anh Tư. Đừng lo không có việc.”

Tư Huỳnh giật thót người. Đừng lo không có việc làm giùm à? Thằng Mót lần này không thể không quan tâm tới Ba Sửu, nó thỏ thẻ:

“Ông Hón làm lèm ‘tới’ lắm, chú Ba. Ổng làm mau hơn chú Tư nhiều.”

Ba Sửu đồng ý ngay:

“Cha Hón là thâm niên mà, chả chỉ có cái nghề rèn. Rồi đây tổ hợp cần nhiều thợ giỏi như vậy đó.”

Thằng Mót nói câu vừa rồi đúng là một câu nói mà Tư Huỳnh muốn nói. Tổ hợp thợ rèn huyện trong tương lai sẽ có hai lò. Người, thì cha con chệt Hón, Tư Huỳnh và thằng Mót. Tư Huỳnh lâu nay vẫn nghĩ nghề rèn mặc dầu cũng là nghề “làm dâu thiên hạ” nhưng ít ra phải có ít nhiều duyên nợ mới sống với nó được.

Việc tổ hợp làm thằng Mót lải nhải nhiều ngày và có ý định không làm với Tư Huỳnh nữa. Có một dạo, nó để Tư Huỳnh vừa quay quạt gió, vừa vỗ đe, rồi mài, giũa… Cáng đáng hết công việc cần có ít nhất hai người làm. Nó không đành lòng, phải trở lại lò.

Nửa năm nay, thằng Mót đã làm Tư Huỳnh thấy rằng nghề rèn không còn là một cái nghề nữa bằng cái nhìn thật sự ngán ngẩm với tổ hợp trong tương lai mà nó sẽ là một tổ viên.

Vô tổ hợp được mua đồ chế độ mà lương đâu có bằng mình làm riêng, chú Tư. Làm riêng “đã” hơn nhiều. Làm riêng dĩ nhiên là “đã” hơn, nhưng nhu cầu của hậu cần nhiều lắm, Ba Sửu nói thế và cho biết Huyện “quyết định yêu cầu” hai lò rèn phải sát nhập thành tổ hợp, vả lại, “cái lò anh Tư ở giữa xóm, mà theo phong tục nước ta, lò rèn phải ở đầu xóm, cuối xóm.”

Trong thâm tâm, Ba Sửu nghĩ rằng mình đã làm cái công việc thuyết phục được người thợ rèn theo sự sắp đặt của mình. Thằng Mót cũng cho như thế: “Chả đem hết đồ này đồ nọ tới làm, toàn là nhu cầu của huyện, của hậu cần làm mình đâu có dám nghỉ bỏ ngang xương được, chú Tư.”

Nhưng Tư Huỳnh cảm thấy không đúng hẳn như vậy. Nghề rèn dầu “tới” hay chưa cũng đã là nghề của mình. Cái “tinh” trong nghề mình đã bòn mót bao nhiêu năm nay đâu dễ một sớm một chiều bị gạt hẳn ra ngoài cuộc sống bằng những chuyện xét ra không dính líu gì tới sự cố gắng của mình. Việc Ba Sửu đem đồ đạc tới tấp nhờ làm giùm và việc lâu nay Tư Huỳnh phải mất ăn mất ngủ vì mấy lưỡi cuốc “chân tượng” là hai việc hoàn toàn khác nhau, mặc dầu hai việc đều đem lại cho Tư Huỳnh sự buồn nản kéo dài từ ngày này sang ngày khác.

“Không phải tại nước, không phải tại lửa,” Tư Huỳnh lẩm bẩm mãi vấn đề này. “Chẳng lẽ tại mình?”

Lâu nay nghĩ mãi Tư Huỳnh cũng vẫn chỉ biết có vậy, nếu không tại mình thì chắc chắn là tại chất thép. Có lần, Tư Huỳnh nghĩ tới sự phối hợp có thể giữa khối sắt nung đỏ và cái tâm của người thợ, những nhát búa chẳng hạn…

Ba Sửu dắt xe đạp lướt ngang qua mặt, miệng lải nhải những gì không rõ lắm. Tự dưng, Tư Huỳnh buông tách nước ngã sang, nói với theo:

“Bữa nào anh Ba về rẫy, trở lại đem theo cây lèm hôm trước tới đây tui trui lại nghe.”

Thằng Mót đang dúi đầu vào cái lưỡi búa làm dở, phần đuôi cắm ngập xuống than hồng, quay phắt lại:

“Ai biểu” – nó liếc nhanh ra cửa – “hôm trước chú Tư nói là làm cho cha Ba Sửu là làm lấy có thôi. Bây giờ chú kêu trui lại, mất công thêm.”

Nhìn theo cái bóng dáng hăm hở sấn ra ngoài trời đang mưa, Tư Huỳnh thấy lòng thật nhẹ nhàng. “Mình sẽ không bỏ nghề. Thằng Mót làm sao biết được có những ràng buộc thật thân ái giữa cái im lặng tịch mịch và tiếng bóp chát chói tai làm con người ta cảm thông được với những cái chướng mắt nhất trên đời. Thằng Mót làm sao biết được có những ràng buộc thật thân ái giữa tàn lụi của than hồng và sức chịu đựng vô cùng tận của máng nước làm con người ta dễ dàng nhận thấy cái tinh diệu của trời đất. Ừ! Cái máng nước chứa đựng trọn vẹn năm thức kim, mộc, thủy, hỏa, thổ của ngũ hành. Nhất là điều này, Ba Sửu lại càng không hiểu.

Tư Huỳnh lại nghĩ trở lại những lưỡi cuốc bị nứt và thấy rằng mình sẽ có lúc tìm được nguyên do, chứ bây giờ thì chưa ngoài cái ý tưởng nhất thời là cứ đổ thừa cho chất thép của nó không tốt, vậy thôi.

“Chệt Hón nói mình như vậy là đúng, Mót à! Ngày mai chắc tao nghĩ một bữa xả hơi.”

Tư Huỳnh luồn tay gãi lưng, ngẫm nghĩ, “Ít nhất cũng đúng với trường hợp Ba Sửu.” Thằng Mót quơ cây sắt nhỏ gạt đùa những hòn than trên lò. Tiếng nổ lách chách và những vệt lửa văng tung toé chắc làm nó vui lắm. Nó nghĩ tới ngày mai có quyền nằm nhà đọc hết cuốn chưởng, cho “đã.”

Tư Huỳnh cúi mình rót trà, nghĩ đến những lời lẽ thân thiện nhất để nói với chệt Hón vào ngày mai về nghề rèn.

(Trích: Măng Đầu Mùa, của Võ Hoàng & Tưởng Năng Tiến, Hương Quê phát hành 1982.

Nguồn: https://gocbebentroi.wordpress.com/2011/06/21/ngheren/ )

 

***

 

Truyện ngắn trên của nhà văn Võ Hoàng.

Tên thật Võ Hoàng Oanh. Sinh 1952 ở Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

1974: Gia nhập Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa.

1975-1976: Tù cải tạo.

1978: Vượt biển, đến Úc.

1979: Định cư ở Hoa Kỳ.

1980-1981: Cộng tác viên báo Đại Dân Tộc của Hà Túc Đạo và tạp chí Việt Nam của Vũ Thế Ngọc.

1982: Cùng với Tưởng Năng Tiến, Thượng Văn, Lý Khánh Hồng chủ trương tạp chí Nhân Văn ở San Jose.

1983: Gia nhập Mặt Trận ông Hoàng Cơ Minh.

1984: Về Thái Lan, Đông Dương.

1984-1987: Uỷ viên chính trị cấp Kháng Đoàn.

1986: Tổng Thư Ký Hội Văn Nghệ Kháng Chiến.

Mất ngày 28 tháng Tám 1987, tại rừng núi Nam Lào.
.

Tác phẩm:

Măng Đầu Mùa, truyện ngắn, cùng viết với Tưởng Năng Tiến, Nhân Văn xuất bản 1982.

Trong Lòng Cách Mạng, truyện ngắn, Nhân Văn xuất bản 1983.

Góc Bể Chân Trời, truyện dài, Nhân Văn xuất bản 1983.

Đất Lạ, truyện ngắn, cùng viết với Tưởng Năng Tiến, Hương Quê xuất bản 1984.

 

.

Nhà văn Võ Hoàng sẽ được tưởng niệm chung trong
Lễ Tưởng Niệm Cố Đề Đốc Hoàng Cơ Minh
và Các Anh Hùng Đông Tiến Năm Thứ 28
Ngày: Chủ Nhật, ngày 13 tháng 9 năm 2015
Từ    : 3 giờ đến 6 giờ chiều
Tại    : Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ
         14140 All American Way, Westminster, CA92683.

 

 


.
.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.