Hôm nay,  

Mẹ Tôi

26/09/201500:00:00(Xem: 5439)
Tâm Thường Định
(Mừng Sinh Nhật 75 tuổi của Mẹ)

Mẹ sinh ra và lớn lên ở vùng quê đẹp và thơ mộng ven biển Miền Trung trong một gia đình Nho giáo. Mẹ, tên là Trần Thị Ái, Pháp danh Nguyên Ái. Mẹ sanh ngày 20 tháng 12, năm 1934 (năm Ất Hợi) tại thôn Vĩnh Hội, Phủ An Nhơn, Huyện Phù Mỹ, Tỉnh Bình Định. Nay là thôn Vĩnh Hội, Xã Cát Hải, Huyện Phù Cát, Tỉnh Bình Định. Mẹ là người con thứ 6 trong một đại gia đình gồm 10 anh chị em. Ông Ngoại là Xã trưởng Trần Hoành và bà Ngoại là Trần Thị Nhĩ. Mẹ xuất thân từ một gia đình Nho giáo, nhưng đã được thấm nhuần tinh tuý Phật Giáo. Thời thơ ấu, quý Cậu Dì và Mẹ được Ông Bà Ngoại cho thọ Tam quy Ngũ giới với vị Phương trượng Chùa Linh Phong (Tục gọi là Chùa Ông Núi), Phù Cát, Bình Định lúc bấy giờ. Từ đó, hạt giống Phật pháp đã thấm nhuần trong Mẹ từ lời nói, hành động, và thân giáo của người. Mẹ lúc nào cũng nhỏ nhẹ, dịu dàng, kiên nhẫn, hy sinh, và từ tốn.

Mẹ là người đảm đang, hiền lành, và nhân hậu. Mẹ còn là vị “nữ tướng” trong gia đình. Mẹ vất vả thức khuya dậy sớm lo cho chồng cho con từng giờ từ thuở làm dâu đến bây giờ. Thuở thiếu thời Mẹ học trường làng đến gần lớp Hai thì phải nghỉ học giúp việc gia đình. Ở tuổi thơ ấu, Mẹ đã lo cho gia đình, trông nôm đàn em, lo việc nhà, và trồng trọt trong vườn. Khi lớn lên, như bao nhiêu thiếu nữ khác trong làng, Mẹ phải làm ruộng làm rẫy, một nắng hai sương thật cơ hàn và vất vả. Mẹ lớn lên trong tình thương yêu và dạy dỗ của Ông Bà Ngoại. Mẹ được hấp thụ những tư tưởng mộc mạc mà bao quát như “Đói cho sạch, rách cho thơm” đến “Ta nên tất thị mình nên”; “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân; Điều gì mình không muốn thì đừng nên làm cho người.” và những tư tưởng căn bản của Phật Giáo như nghiệp và nhân quả luân hồi. Đó cũng là những gì mà chúng tôi được Mẹ dạy từ tấm bé. Người trong họ hàng, ai ai cũng thương mến Mẹ. Ở trong làng, ai cũng biết Mẹ hiền hậu, tử tế, và xinh đẹp. Có lần Mẹ nhắc lại có gã thanh niên con trai làng bên cỡi ngựa chận đường trêu Mẹ. Mẹ thẹn thùng quay đi. Những gã thanh niên tuấn tú như thế mà chưa lọt mắt Mẹ vì Mẹ chỉ biết “Ba Mẹ đặt đâu con nằm đấy” mà thôi.

Năm 1953, khi lên mười chín, Mẹ lạy Ông Bà đi lấy chồng. Chuyện tình của Ba Mẹ là một chuyện tình thật đẹp. Ông Nội, Ông Ba Ước, Ông Bốn Kha, và Ba chèo thuyền đi mua củi về chụm. Thực ra là “xem mắt” thì đúng hơn. Mẹ rất vô tư mang nước lên đãi khách trong khi quần áo đi cày ruộng vẫn còn nguyên vẹn. Cái thật thà, vô tư đó là một trong những đặc điểm mà Mẹ được Ông và Ba thương mến rất nhiều. Ba là con trai đầu, là anh cả trong gia đình 9 anh chị em. Ba thì lớn lên với biển. Biển dạt dào êm ả, biển bao la mặn nồng, nhưng biển cũng ầm ĩ vô cùng. Ba lặn lội dầm mưa dãi nắng để kiếm kế sanh nhai. Ba hiền lành, chất phát, dáng trung trung, chỉ 1 mét 6 (5'3''), nhưng vạm vỡ; Mẹ nhân hậu, cao ráo, và xinh đẹp. Ba Mẹ thật là xứng đôi vừa lứa.

Mẹ làm dâu thật tốt, những năm đầu Mẹ lo sự nghiệp gia đình bên Nội nên mãi đến 6 năm sau Mẹ mới có con. Tình yêu của ba Mẹ ngày càng sâu đậm và sau 21 năm, Mẹ đã sinh cho Ba được năm chị gái. Đến đây thì sức cũng đã cạn. Ngũ long công chúa còn gì bằng, nhưng Ba là con trai trưởng nên cần phải “Nối dõi tông đường”. Vì sự thuyết phục rất tuyệt diệu của Ba và áp lực bên chồng, Mẹ một lần nữa thọ thai. Đợt này, thai nghén rất khác thường. Mẹ thầm nghĩ đây chắc là hỷ sự, là đứa con trai để nối tiếp dòng họ Bạch. Mẹ lại rã rời tay chân khi biết được thêm một chị gái, chị Bạch Thị Xoa chào đời. Chị là sự xoa dịu, vỗ về cho những cơ hàn và nhọc nhằn của Ba Mẹ. Mặc dù toàn là con gái, nhưng Ba Mẹ lại yêu thương các con vô bờ bến.

blank
Hình ảnh với mẹ.

Thế rồi, Ba Mẹ quyết chí sẽ không có con thêm nữa vì tuổi đã ngoài 40. Sau cùng để tiếp nối dòng họ Bạch, Ba Mẹ đã quyết định xin một anh trai tại Cô Nhi Viện Quy Nhơn về làm con nuôi. Anh trai, Bạch Xuân Thảo là con của một quân nhân Hoa Kỳ. Ba Mẹ xin anh về lúc anh lên hai, ba tuổi, thương yêu và nuôi nấng anh như đứa con ruột. Anh rất đẹp trai và kháu khỉnh. Không bao lâu Ba Mẹ biết anh có chứng bệnh kinh phong; thật nhọc nhằn cho Mẹ nhưng tình yêu của Ba Mẹ dành con anh vẫn đậm đà. Thế là, không mong mà được; không đợi, không mong, Mẹ đã thọ thai một lần nữa. Và đứa con trai duy nhất ra đời đúng vào ngày rằm Tháng Bảy, mùa Vu Lan Thắng Hội, năm Nhâm Thìn (1976) trong sự thương yêu và trìu mến của nhiều người, nhất là gia đình bên Nội. Bạch Xuân Phẻ, cái tên mà Ba Mẹ mong mỏi luôn luôn khỏe mạnh, là đứa con trai ruột duy nhất của Ba Mẹ. Bạch Xuân Phẻ là cháu Nội đích tôn của Ông Bà họ Bạch đời thứ 6 trong làng chài Phước Lý.

Ở Phước Lý (nay là Xã Nhơn Lý), ai cũng thương yêu Mẹ. Vì Mẹ sống cho gia đình và sống vì mọi người. Mẹ nấu ăn rất ngon. Mẹ nấu cho nhiều đám giỗ và đám cưới. Nhiền lần Mẹ nấu ăn cho cả vài trăm người mà không hề than phiền mệt nhọc. Mẹ là người nhà Quê mà làm mắm, làm mực không ai bằng. Mẹ buôn tần bán tảo. Mẹ vun vén, lo toang xây nhà cho Ông Bà Nội. Mẹ giúp chăm sóc các em chồng, trông nom và lo lắng cho gia đình chồng. Cuộc sống cơ hàn như thế mà lúc nào Mẹ cũng dịu dàng, kính trên nhường dưới, và ngọt ngào với mọi người. Mẹ sống trên thuận dưới hòa, Mẹ được lòng rất nhiều người và tiếng thơm ngày càng vang xa.Với một bầy con 8 đứa, Mẹ dạy dỗ, yêu thương, và chăm sóc từng ngày. Mẹ lo cho chồng, cho con. Mẹ đã vượng phu, ích tử. Mẹ đã hun đúc và dìu dắt cho các con thành người. Tuy Ba Mẹ không có học vị, nhưng đứa nào cũng có nghề nghiệp và học vấn đàng hoàng. Chỉ có chị Hai, Bạch Thị Đố, đã cùng Mẹ hy sinh lo cho đàn em học hành đến nơi đến chốn nên không có cơ hội lo cho chính mình. Mẹ đã nuôi nấng cho đàn con lớn khôn thành người và đã gả chồng cho những con gái lớn sau khi đã có nghề nghiệp, đó là chị ba Lố và chị bốn Gành. Năm 1987, chị thứ 6, Bạch Thị Phượng là người con gái đầu tiên của Làng được vào Đại Học Sư Phạm ở thành phố Quy Nhơn. Mẹ hy sinh biết bao, có lần Mẹ đã bán hết tất cả của cải mình có để nuôi các con ăn học. Hồi trước, Mẹ bảo là nhà có vàng thẻ, dần mòn bán hết để lo cho con cái rồi đến lúc phải đi mượn gạo nấu đỡ qua ngày. Có những lúc, Mẹ đã rơi nước mắt mà nào Mẹ có cho Ba hay con cái hay biết gì đâu. Mẹ vẫn một lòng kham nhẫn chịu đựng khổ nhọc nuôi con. Chị thứ 7, Bạch Thị Hoa, vì thương gia đình, nên đã tìm đường vượt biển hầu giúp gia đình như thiên hạ, nào ngờ chị bị kẹt lại ở Phi Luật Tân. Điều đó càng làm cho Mẹ thêm lo lắng và âu sầu.


Đến năm 1988, có chương trình Con Lai Đi Mỹ (Vietnamese Ameriasian Homecoming Act), Ba Mẹ quyết định làm giấy tờ thử xem sao. Rồi cuối cùng cũng không có đủ tiền vào Sài Gòn, nên chỉ đành cho anh Thảo một mình về Mỹ. Nhưng đại sứ quán bảo rằng anh bệnh, nên cần phải có người chăm sóc. Nhà chỉ đủ tiền cho chị Sáu đi thôi, nhưng chị Sáu cũng lưỡng lự vì đang học ở Trường Đại Học Sư Phạm Quy Nhơn vả lại chị cũng ngại xa gia đình một mình. Cuối cùng, Mẹ lại một lần nữa âm thầm đi mượn chác để có tiền vào Sài Gòn chuẩn bị đi Mỹ. Ở tại Sài Gòn, anh Thảo và Mẹ được ở tại Trung Tâm Chuyển Tiếp Trẻ Lai tại quận Tân Bình để chuẩn bị và trị liệu cho anh. Thời gian này là thời gian vất vả nhất cho Mẹ. Anh Thảo lại trở bệnh nặng và tâm trí lại bất ổn. Mẹ cực nhọc biết bao. Trong lúc khổ đau và vất vả, có nhiều cô chú trong trung tâm giúp đỡ cho ba mẹ con như chú Tùng, cô Tâm, cô Thu, và chú Hoàng. Vì sự sinh tồn, Mẹ phải lặn lội đi bán hàng rong ở khu du lịch Đầm Sen bên cạnh. Mẹ phải đi chợ thật xa mua hoa quả và vật dụng, bán lấy lời. Có lần Mẹ bị bắt, các chú Công An đã nhốt Mẹ trong phòng cầu tiêu nhỏ xíu. Mẹ vừa tủi thân, vừa sợ sệt; thế là Mẹ khóc nguyên đêm. Nước mắt Mẹ đã đổ thật nhiều vì con vì cái. Mỗi lần nhắc đến việc này, chúng tôi không cầm được nước mắt.

Có những lần, Mẹ phải dành dụm thức ăn hoặc sữa để bán lại lấy tiền, giúp các con ở ngoài Trung. Bản thân tôi phải bỏ học từ đầu lớp Bảy để vào Sài Gòn cùng Mẹ chia ngọt sẻ bùi trong cuộc sống. Có lần về lại thăm quê từ Sài Gòn, người ta đã nhìn Mẹ và gia đình bằng đôi mắt trêu chọc, khinh miệt. Còn Trường làng Phổ Thông Cơ Sở Xã Nhơn Lý cũng không cho tôi đi học lại vì họ viện lý do là “sắp đi Mỹ”. Mẹ vẫn cười làm lơ không một lời oán trách. Thế rồi, duyên lành cũng đến. Cuối cùng, toà đại sứ cho cả gia đình đi Mỹ mà may thay là có một ông bác sĩ Mỹ bảo trợ nên gia đình được bay trực tiếp qua Thái rồi qua Mỹ, thay vì qua Phi Luật Tân ở học tiếng Anh trong 6 tháng mới định cư qua Mỹ. Gia đình rất hạnh phúc và ngậm ngùi rời Việt Nam vào ngày 9 tháng 6 năm 1991. Qua Thái Lan ở khoảng một tuần, sau đó đại gia đình được đặt chân trên xứ Hoa Kỳ vào ngày 18 tháng 6 năm 1991 tại San Francisco rồi định cư tại Lincoln, Nebraska. Ở San Francisco, chúng tôi rất vui, ngạc nhiên, tò mò, lo sợ, hồi hộp, và hy vọng. Và đó cũng là những cảm xúc ban đầu.

Niềm vui của Mẹ chưa thấm thì nước mắt Mẹ lại đổ vì trên chiếc phi cơ 18 chỗ ngồi, nhìn xuống vùng Trung Mỹ toàn là ruộng với ruộng nối tiếp nhau. Cò bay thẳng cánh là đây, mà Mẹ thì lại sợ đi làm ruộng. Như mọi sự đã được Ơn trên an bày, sau 6 tháng ăn tiền trợ cấp của chính phủ. Ba Mẹ có việc làm ở hãng giặt, chị sáu Phượng thì phải vừa đi học vừa đi làm ban đêm để giúp gia đình và lo cho các em đi học. Chúng tôi biết chị cũng đã khóc thật nhiều và thầm cảm ơn sự hy sinh cao cả của chị cũng như chị Hai một thuở. Năm 1993, chị Hoa được đoàn tụ cùng gia đình từ Phi Luật Tân. Thế rồi chúng tôi được đưa vào lớp 10, và cũng bắt kịp việc học hành và nên người như thiên hạ, không phụ lòng ân nghĩa sinh thành dưỡng dục của Ba Mẹ.

Ở Lincoln, Ba Mẹ lấy làm tự hào và hoan hỷ trong sự trưởng thành, học hành, và hiếu thảo của con cái. Ngoài ra, Ba Mẹ tìm được sự an lành và thảnh thơi tại Chùa Linh Quang. Ở đó ai ai cũng quý mến Ba Mẹ đã một lòng tu học và làm công quả cho Chùa. Mẹ một thời, một đời sống vì chồng vì con, vì gia đình, vì tha nhân. Trên đôi vai của Mẹ vẫn cưu mang cho những người còn ở lại Việt Nam. Thế rồi, sức Mẹ cũng có hạn, Mẹ về hưu mừng tuổi hạc. Năm 2000, chúng tôi đã đón Ba Mẹ về sống với nắng ấm California. Mẹ càng ấm lòng khi chứng kiến con cái thăng hoa, tuần tự lập gia đình, sanh con đẻ cái. Hết lo cho con, bây giờ Mẹ lo cho cháu. Đó cũng là niềm vui của Mẹ. Ba Mẹ vào tuổi hạc, thất thập cổ lai hy, Ba mẹ càng ngày càng tinh tấn thiền tịnh song tu. Ba Mẹ thường xuyên đi về Chùa và tu tập tại Đạo tràng Kim Quang. Nói sao cho hết tình thương yêu của Ba Mẹ. Tình thương của Mẹ ngọt ngào và diệu vợi. Mẹ là dòng suối ngọt ngào, mẹ lấp lánh ngàn sao, mẹ là rau thơm sau hè, mẹ là những chùm mận đỏ, mẹ là tiếng chuông tiếng mỏ, mẹ là câu kệ bài kinh, mẹ là Bất Khinh Bồ Tát, mẹ là cánh đồng bát ngát, mẹ là nước mắm nhỉ cá cơm, mẹ là cảo thơm, mẹ là bài thơ lục bát. Mẹ ơi, chúng con làm sao dùng từ ngữ có hạn của nhân gian mà viết hết về Mẹ được. Tình Mẹ sao mà mênh mông và dào dạt quá.

Mẹ yêu,
Hôm nay mừng tuổi Mẹ
Các con lạy đền ân
Ơn Mẹ hơn trời biển
Ơn Mẹ thật vô biên
Mẹ ơi, con thương Mẹ!

Sacramento, December 20th, 2008.

Tâm Thường Định (http://phebach.blogspot.com/2015/09/me-toi-my-mother.html)

Ý kiến bạn đọc
26/09/201522:54:21
Khách
năm Nhâm Thìn (1952 kho^ng pha?i 1976), 1976 = Bi'nh Thi`n
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Kể từ khi tổ chức khủng bố Hamas tấn công vào Israel vào ngày 7 tháng 10 năm 2023, các vụ xung đột đẫm máu xảy tại Dải Gaza cho đến nay vẫn chưa kết thúc. Nhưng gần đây, cộng đồng quốc tế còn tỏ ra lo ngại nhiều hơn khi giao tranh giữa Israel và lực lượng dân quân Hezbollah ở Lebanon đang gia tăng. Bằng chứng là sau cái chết của thủ lĩnh Hamas Ismail Haniya và thủ lĩnh Hezbollah Hassan Nasrallah, tình hình càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Trong vài tháng qua, người dân Mỹ, dù muốn hay không muốn, cũng đã có nhiều cơ hội để nhìn về một bức tranh mà trong đó có quá nhiều sự tương phản. Những mảnh ghép từ hai tầm nhìn, hai chiến lược, hai mục đích hoàn toàn khác biệt đã dần dần rơi xuống, để lộ ra hai con đường hoàn toàn khác biệt cho người Mỹ lựa chọn. Dù có một bức màn đã rơi xuống (như nữ hoàng Oprah Winfrey đã ví von) cho một thuyền trưởng bước ra, trao lại cho người dân sự hy vọng, lòng tin, trách nhiệm, thì sâu thẳm bên trong chúng ta vẫn muốn biết, những giá trị thực của một triều đại đã mang lại. Từ đó, niềm tin sẽ được củng cố.
Bi hài kịch “ngoại giao cây tre”, với hoạt cảnh mới nhất là “cưỡng bức đặc xá”, đã giúp chúng ta nhận ra rằng, dẫu khác nhau nước lửa, “phóng sinh” và “hiến tế” vẫn có thể hội tụ ở ý nghĩa “triều cống” khi phải chiều lòng hai cường quốc ở hai đầu mút của hai hệ tư tưởng trái ngược nhau. Để đẹp lòng bên này thì phải nhẫn tâm “hiến tế”, mà để làm hài lòng bên kia thì phải diễn tuồng “phóng sinh” để có một dáng dấp khai phóng, cởi mở. “Chiến lược ngoại giao” này, phải chăng, là một trò chơi “ăn bù thua” mà, diễn đạt bằng ngôn ngữ toán học của Game Theory, là có tổng bằng không?
Trận Điện Biên Phủ kết thúc vào hôm 7 tháng 5 năm 1954. Bẩy mươi năm đã qua nhưng dư âm chiến thắng, nghe chừng, vẫn còn âm vang khắp chốn. Tại một góc phố, ở Hà Nội, có bảng tên đường Điện Biên Phủ – cùng với đôi dòng chú thích đính kèm – ghi rõ nét tự hào và hãnh diện: “Tên địa danh thuộc tỉnh Lai Châu, nơi diễn ra trận đánh quyết liệt của quân và dân ta tiêu diệt tập đoàn cứ điểm thực dân Pháp kéo dài 55 ngày đêm”.
JD Vance đã chứng tỏ một “đẳng cấp” khác, rất “Yale Law School” so với thương gia bán kinh thánh, giày vàng, đồng hồ vàng, Donald Trump. Rõ ràng, về phong cách, JD Vance đã tỏ ra lịch sự, tự tin – điều mà khi khởi đầu, Thống đốc Walz chưa làm được. Vance đã đạt đến “đỉnh” của mục tiêu ông ta muốn: lý trí, ôn hoà, tỉnh táo hơn Donald Trump. “Đẳng cấp” này đã làm cho Thống Đốc Tim Walz, người từng thẳng thắn tự nhận “không giỏi tranh luận” phải vài lần phải trợn mắt, bối rối trong 90 phút. Cho dù hầu như trong tất cả câu hỏi, ông đã làm rất tốt trong việc phản biện lại những lời nói dối của JD Vance, đặc biệt là câu chất vất hạ gục đối thủ ở phút cuối: “Trump đã thua trong cuộc bầu cử 2020 đúng không?” JD Vance đáp lại câu hỏi này của Tim Walz bằng hàng loạt câu trả lời né tránh và phủ nhận sự thật. Và dĩ nhiên, rất “slick.” “Trump đã chuyển giao quyền lực rất ôn hoà.” Cả thế giới có thể luận bàn về sự thật trong câu trả lời này.
Phải nhìn nhận rằng chuyến đi đầu tiên của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đến Mỹ đã được giới chức ngoại giao Việt Nam thu xếp để ông gặp được nhiều lãnh đạo, xem như xã giao ra mắt để hợp tác, hỗ trợ Việt Nam trong nhiều lãnh vực trong tương lai. Bài diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc chỉ lặp lại các chính sách đối ngoại của Hà Nội, nên không được truyền thông quốc tế chú ý nhiều như các diễn văn của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky và Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu, là đại diện cho những quốc gia trực tiếp liên can đến các xung đột ở Trung Đông, ở Ukraine mà có nguy cơ lan rộng ra thế giới. Ông Lâm mới lên làm chủ tịch nước kiêm tổng bí thư Đảng Cộng sản được vài tháng, sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng qua đời, nên ông muốn dịp đến Liên Hiệp Quốc là dịp để thể hiện vai trò lãnh đạo của mình và nhấn mạnh đến chính sách ngoại giao du dây của Hà Nội.
Sự bất mãn lan rộng với các hệ thống thuộc chủ nghĩa tư bản hiện tại đã khiến nhiều quốc gia, giàu và nghèo, tìm kiếm các mô hình kinh tế mới. Những người bảo vệ nguyên trạng tiếp tục coi Hoa Kỳ là một ngôi sao sáng, nền kinh tế của nước này vượt xa châu Âu và Nhật Bản, các thị trường tài chính của nước này vẫn chiếm ưu thế hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, công dân của nước này cũng bi quan như bất kỳ công dân nào ở phương Tây.
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.