Hôm nay,  

Bụi Thu Mờ

19/11/201518:02:00(Xem: 6215)


 
blank
 .
Những buổi sáng cuối thu sao mà đầy sương. Con đường trắng như một dòng sữa chảy, trôi bồng bềnh trong làn sương mờ đục chẳng thấy rõ mặt người bên kia vỉa hè. Lắm khi thấy mình trôi đi trên hai chân khiu khẳng. Nơi đây không gần một bến sông, không gần một mặt hồ, mà sao sương phủ! có lẽ hàng cây sồi lâu năm ​ph​ủ trùm nhiều mộng ướ​t​ ủ dột nên sáng thu về mờ đục như sương. Ngày không biết lên bao giờ vì nắng vừa le lói đã chết ​yểu ​sau những áng mây trắng đục..
Em có còn ngồi đó để nhớ có một thời linh hồn tôi vẽ chân dung: Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn / mà mùa thu dài lắm ở chung quanh(Nguyên sa) Tóc em ngày đó dài lắm, bàn tay tôi lùa trong vùng tóc rối, đã mấy lần không tìm được lối ra. Để tình ấy đậu lại ở đường ngôi rẽ phân vân. Và ước đẫm môi tôi​,​ nụ hôn tóc thơm mùi cỏ nội cùng sương mai. Tóc ngắn mà mùa thu thì quá dài. Phải chăng không tha thiết gì một mùa thu úa bất hạnh, mà thầm trách cho một mùa thu ​dài ​lê thê?  
Ngày ấy cũng quanh mấy ngã đường thành nội u trầm. Sáng mùa thu không trong xanh mà mơ màng​. Như thành phố còn ngái ngủ, chưa kịp rửa mặt, nhìn cái gì cũng mờ mờ. Những con sâu đo buông mình từ trên hàng cây bàng lá đỏ. Cứ đong đưa làm hoảng hốt những bước chân học trò. Ngày ấy cũng sương khói như hôm nay tù mù quanh bờ hồ ven thành cổ. Chẳng biết là sương muối từ dưới mặt hồ sen bốc lên hay từ các đám mây thấp như tầm tay với, những đám mây mọng nước chạm trên đỉnh đèo rồi tan ra ngàn ngàn giọt sương nhỏ, rơi xuống nội thành rồi cứ lửng lơ. Những tưởng nội thành ​là ​nhiều sương. Đi ra thành, qua sông về ​Đ​ập ​Đ​á lại thấy sương càng nhiều hơn. Con sông Hương giờ như mái tóc nàng con gái, chợt bạc trắng sau một đêm trằn trọc mơ chồng. Chiếc cầu Tràng Tiền như chiếc lược ngà, cài hờ hửng những bước chân bồng bềnh lãng du về bên ni bên nớ. Cũng mù sương khắp chốn, bàng bạc trong hồn. .
Bên kia Thôn Vỹ, nắng không lên trên hàng cau, vườn ai lá thu không còn xanh biếc, sương khói cứ theo sông nước ​mà ​đắn đo để nhân ảnh mịt mờ xa xăm. Sương mù như thế thì làm sao thấy rõ được người, nên cảm nỗi nhớ người cứ la đà như sương...Ôi! cái mảnh đất thần kinh sao mà đẹp, mà buồn. Đẹp vì sông nước l​ả​ng đãng vào thu như tranh thủy mặc. Buồn vì sương mù nhiều​ lắm​​. Bởi một nắng mà hai sương​: sương sớm và sương khuya. Trong hai sương đó luôn phủ xuống trên vai gầy của em ​những​ nhọc nhằn cơm áo.     
Chạnh nhớ câu chuyện xưa của một Tô Đông Pha tài hoa mệnh bạc. Tuổi trung niên mà sớm mang kiếp lưu đày biếm trích. Đi từ nội địa kinh kỳ ra tới đảo hoang, đi từ khi 45 tuổi tóc hai màu tiêu muối hư phù, lúc tuổi đời chuẩn bị bước về những năm tháng nhàn hạ hưu trí. Đi biền biệt đến năm 66 tuổi tóc trắng như lau mới trở lại cố quận phai màu. Lúc ấy cũng vào mùa thu. Mùa thu và tóc trắng.
​.​
Hai thứ tóc, người đi ngoài bảy ngàn dặm​.​
Một thân côi, thác đổ xuống mười tám thác ghềnh​.​

Đi đày đọa cuộc lao viễn mộn​g​​. Lúc thăng lúc trầm​;​ lúc ngồi ghế quan quyền cao​,​ tay cầm cọ nét trúc phong trần tiêu sái​;​ lúc làm nông dân cày cuốc nhà tranh vách đất mà đức trọng xao xác những vần thơ. Miên man một dòng thơ ngút ngàn trong cuộc lữ đọa đày​.​ Tuệ Sĩ gọi là phương trời viễn mộng. Những lao viễn mộng tù đày trên thân xác của tuổi chớm già, khi gió heo may nhè nhẹ về mà bạo tàn như bão lốc. Nhưng trong lòng, thơ vẫn phiêu lãng một cuộc lữ bạt ngàn. Thơ lúc ấy là cứu rỗi. Thơ lúc đó là nghiệp chướng đam mê. Cứ đeo đẳng mộng đời, hay mộng đời cứ đeo đẳng lấy thơ. Cũng như Phùng Quán đã lắm lần "vịn ​câu ​thơ mà đứng dậy". Thơ chính là chổ tựa và bám víu cuối cùng cho con người khi thân phận bị cu​ố​n phăng trên dòng lũ mệnh số hắt hiu​ bạo tàn​. 
Sương mù sáng hôm nay cũng giống như sương mù Đà Lạt. Sương đó như mây thấp ngang đầu, đi ngang qua những ngọn đồi thông ướt át, đi qua tháp chuông có con gà gáy trong mùa thu. Sương la đà quanh gót chân theo triền dốc quanh co​,​ cũng như theo cành liễu rũ ven hồ mọng nước. Mùa thu không có phấn thông vàng bay mà chỉ có phấn bụi cây bông liễu sa xuống mặt hồ. Tô Đông Pha hình như cũng có tả: 

Chi thượng liễu miên xuy hựu thiểu. Thiên nhai hà xứ vô phương thảo. 
​(​Lớp bụi phấn bông liễu trên cành, gió thổi rồi vơi dần. Ven trời hàng vạn nẻo, nơi nào không là cỏ non? Tuệ Sỹ dịch.​) 

Liễu miên là lớp bụi mỏng của bông liễu. Vô phương thảo là cỏ xanh non phương nào trong mùa thu. Thật ra Tô Đông Pha diễm phúc ngút ngàn khi trong cuộc lưu đày ấy có nàng Triêu Vân. Như người tình tri bỉ tri kỷ trong cơn hoạn nạn, ​người tình trẻ​ tuổi đời thanh xuân như cỏ non. Nàng mất khi xuân mãn 34 tuổi và lúc ấy Tô Đông Pha đà 61. Một đầu tóc xanh, một đầu tóc trắng, trong mùa thu chia tay vĩnh quyết ngàn trùng khói sương. 
Đích thực đó là lần màu quan san biệt ly mãi mãi. Người trẻ xuân nồng đi về trong đất lạnh, kẻ luống thu già mãi miết cuộc lưu vong. Quan san là quan ải núi non. Trong mùa thu chia lìa ấy lá phong đỏ vàng ngập bìa rừng. Xa xăm mây trắng quyến luyến chân núi.
.
Người lên ngựa, kẻ chia bào,
Rừng phong Thu đã nhuốm màu quan san. (Truyện Kiều)  
.
Ngày ấy những tráng sĩ lên đường giã biệt tình riêng, ​nhập ngũ ​nguyện vì non sông bảo vệ giặc Bắc phương, thề da ngựa bọc thây cũng vào mùa thu, trước khi mùa đông về rét buốt nơi đồn trú biên thùy. Biệt ly mà lại có sắc màu? Đó là màu quan san. Mà màu quan san như thế nào nhỉ. Đã có hương thời gian với mùi thạch thảo tim tím nhớ, thì màu quan san ắt cũng là màu sương trắng của nước mắt nhạt nhòa pha lẫn với đỏ vàng của lá chết thu phai. 
Lại quay về sương mù sáng thu nay. Trái đất có làm gì lầm lỗi với cậu bé El Nino mà mùa thu năm nay đã chớm xáo động những đổi thay không lấy gì làm vui. Sẽ lạnh lẽo và băng giá hơn lệ thường. Nghe đâu bên Luân Đôn đã dày đặc sương mù. Sương mù nhiều lắm và không đẹp như tranh của Claude Monet về sương mù bên dòng sông Thames​,​ chấm phá trên nền vải trắng những mảng cọ tung hoành. Sương ở đó dày đặc sánh đến mức người Anh gọi là "súp đậu". Dày đến mức không thể thấy bàn chân mình khi rảo bước trên phố mù căm. Thành phố ngày càng đông dân cư và xưởng máy  thì sương càng trở về mỗi năm mỗi nhiều, về rồi ở lại lâu hơn. Mùa đông tháng 12 năm 1952, Một tấm chăn màu trắng đục và dày đặc của sương mù bao trùm xuống thành phố Luân Đôn. Thành phố bao quanh bởi những ngọn đồi nhỏ, những miền đất trủng nước thấp, có con sông Thames lớn chảy qua. Mặt đất nóng bốc hơi, khí lạnh trên cao đè xuống, màn sương kết tụ là đà không lối thoát, cùng với khói bụi ô nhiễm của xe cộ, các lò sưởi than, các quặng thải li ti của nhà máy công xưởng....
Tất cả quyện đặc lại như màu một bát súp đậu là vậy. Năm đó màn sương kinh hoàng này đã ở lại 5 ngày, giết chừng 4,000 người, làm hơn 100 ngàn người đau yếu vì các bệnh liên quan đến đường hô hấp. Màn sương mù này không thơ mộng và đẹp như thi ca và tranh ảnh. Hồi xa xưa hơn nữa, năm 1873 cũng ​ở Luân Đôn, ​có lần sương mù vào tháng 12, giết 273 người. Sương mù đến nỗi trong nhà hát ca kịch dù đóng kín cửa thế nhưng cũng không thể trông thấy diễn viên, chỉ nghe được tiếng hát. Gia súc và trâu bò chết vì nghẹn thở, tai nạn và tội phạm gia tăng. Tai nạn vì những vụ đụng xe ngựa hay xe tông vào cửa hàng bên phố. Những tay lãng tử say rượu và té xuống dòng sông Thames bên dưới sương mù...Tội phạm vì có những chú bé hay thanh niên làm nghề "linklighters" nghĩa là dẫn đường trong sương mù. Bằng một vài xu, chúng cầm bó đuốc dẫn lừa hành khách vào những con hẽm tối. Sương mù dày đặc ​bao ​che cho các vụ cướp bóc ngay tại gia khi mà các gia chủ còn ở trong nhà...
Mùa thu nơi tôi ở mọi năm trời ​thường vẫn ​cao mà nắng ​không ​oi nồng. Ngày và đêm thì dài bằng nhau. .
​Gió hiu hiu nhẹ nên lá úa nằm ngoan chở che mặt đất. Bầu trời trong không một hạt bụi. Nơi này không có nhiều rừng thu đầy lá phong vàng đỏ. Chỉ có lắm cây sồi và thông cedar. (Những đám rừng cedar đến mùa hè trổ bông bụi bay trong gió, mang theo những hạt phấn làm dị ứng đến sốt người, nước mắt chảy dài, khan tiếng ho đêm.) Mùa thu quanh đây vẫn ​ngai ngái​ màu xanh. Cái màu xanh evergreen của các loài cây sống mãnh liệt chịu đựng hạn hán và giá rét (c​hắc cũng​ chịu đựng như anh và em?) Riêng chỉ có một loài cây Bradford Pear thật đẹp. Tạm gọi là cây Lê Bradfort, vì trái giống trái lê, nhỏ xíu bằng ngón tay út. Ăn chua chua chát chát, nhưng lá cây thì tuyệt đẹp. Đẹp vì khi thu chín lá chuyển sang vàng rồi đỏ cam. Mùa thu dài lá th​ay màu mà​ không rụng, cứ dính vào cành ​cây, những chiếc lá vàng đỏ ​lay xoay​ như chong chóng,​ lấp lánh trong nắng thu. 
​​Những con nắng thu hiếm hoi ​lại ​đỏng đảnh sáng nay không chịu về. Chỉ có sương mù tê tái. Mùa thu nơi đây có lẽ không đẹp như em nghĩ. Chẳng có màu quan san vì mọi chuyện đã xa rồi. Em ngày đó giờ không còn tóc ngắn. Tóc râu tôi chừng cũng lấm tấm sương. Chẳng biết vì tóc điểm bạc hay sương mù. Mà ngay cả con mắt nhìn sáng nay mọi thứ trong sương cũng mờ mờ. Chẳng biết có hạt bụi nào trong mắt. Mùa thu đẫm sương làm sao có bụi! Cũng không có sợi khói nào bay để đôi mắt cay. Không có phấn thông vàng, không có rừng phong đỏ, không có cành ngô đồng và mưa bụi tháng chạp. Trầm hương cũng chưa bay vì năm chưa hết. Vậy mà mắt cứ cay.          
.
Mòn con mắt sầu đưa từ cổ độ
Bụi thu mờ ai phủi với hai tay. (Bùi Giáng) 
.
A! đúng rồi. Sương mù sáng thu này chính là bụi thu ​mờ​​ Chẳng màng tay phủi. Chẳng màng lau kính. ​Cứ để nhạt nhòa cho thu tàn. Tôi bước vào dòng đời, bồng bềnh như sương khói. Và em cũng thế, lâng lâng những gót hài. Mùa thu chắc còn dài. Sương như bụi thu mờ. Mơ phai.    .
​SB. 11.2015​
Sean Bảo
  
   


.
.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.