Hôm nay,  

Cộng Đồng Hồi Và Khủng Bố

08/12/201500:00:00(Xem: 10992)

...Tổng thống nghĩ cấm bán súng sẽ hết khủng bố sao?

Với cuộc khủng hoảng di dân nghiêm trọng nhất trong lịch sử Âu Châu, và với cuộc tranh cãi hiện nay tại Mỹ về việc nhận dân tỵ nạn Syria, cộng với biến cố San Bernardino bên Cali, ta cần nhìn qua cuộc sống của khối di dân Hồi giáo trên thế giới. Đó có phải là một cái lò nung đúc khủng bố không?

Tại Mỹ, có ít nhất 4 triệu dân theo đạo Hồi, hơn 1% dân số Mỹ, một con số rất nhỏ. Những tiểu bang có nhiều dân Hồi nhất là Michigan, New Jersey, New York và Massachusetts. Tập trung lớn nhất là tại thành phố New York với khoảng 80.000 người, thua xa khu Bolsa của ta.

Tại Âu Châu, khối dân Hồi giáo, tuyệt đại đa số cũng là di dân chứ không phải là dân tỵ nạn chính trị hay tỵ nạn chiến tranh. Đến từ nhiều đời cũng có do việc nhận dân thuộc địa cũ, mà mới qua cũng có, qua các làn sóng tỵ nạn chiến tranh từ vài năm gần đây. Nói chung, tổng số di dân Hồi tại Âu Châu cao hơn Mỹ rất nhiều, khoảng 40 triệu người, từ 3% tới 20% tùy theo quốc gia. Mà mỗi quốc gia cũng có thành phần di dân Hồi khác nhau. Tại Anh, đa số là dân Pakistan và Bangladesh, tại Pháp là dân Bắc Phi, tại Ý là dân Libya và Ethiopia, tại Đức và Đan Mạch là dân Thổ Nhĩ Kỳ, tại Thụy Sỹ là dân Nam Tư trước đây, tại Thụy Điển, Na Uy là dân Iraq và Iran mới qua sau này. Paris có lẽ là thành phố đông dân Hồi nhất, hơn một triệu người sống trong các vùng ngoại ô.

Bài này chỉ bàn đến khối di dân Hồi, không bàn đến những dân địa phương, Mỹ hay Âu Châu, đã theo đạo Hồi từ lâu đời rồi, như Albania, Kosovo, Herzegovina, hay những vùng dân Hồi phiá Nam của Nga.

Tại các thành phố lớn của Mỹ có dân Tàu nhiều, ta thấy có Chinatown. Ngoài ra ta cũng thấy Little Saigon, Little Havana, Little Italy, Little Tokyo, Koreantown, v.v... Tức là khối di dân thường tụ tập sống chung với nhau trong vài khu phố. Lý do hiển nhiên là để có thể liên lạc với nhau, tìm bạn bè thân thuộc, sống trong hương vị quê hương, ăn uống mua sắm sản phẩm quen thuộc,...

Các cộng đồng Hồi giáo trên khắp thế giới cũng vậy, thường tập trung trong vài khu phố rõ rệt, phần lớn là trong vùng ngoại ô các thủ đô hay thành phố lớn.

Hầu hết các khối di dân tìm cách dung hoà nếp sống truyền thống với nếp sống của dân địa phương, đặc biệt là khối di dân thế hệ hai và ba thì đã hoà nhập một cách rất tích cực. Chẳng hạn như ở Mỹ, ta đã thấy không thiếu gì dân biểu, nghị sĩ gốc Cuba, gốc Tầu, Nhật,... Ngay cả trong quân đội, cũng không thiếu gì tướng tá gốc Á Châu, kể cả một ông tướng gốc Việt. Trẻ con gốc Việt, Tàu, Nhật,... không khác gì trẻ con Mỹ trắng hay Mỹ đen, nói tiếng Anh như gió, thuộc làu lịch sử Mỹ, mê hamburger hơn phở mì, líu lo nhạc rap chứ không rên rỉ những bài tình ca của Chế Linh, quần jean, áo t-shirt, mũ baseball,... Mấy cô chắc cả đời chỉ mặc áo dài một hai lần khi đám cưới, hay khi lên sân khấu ca hát quốc ca hay nhạc Việt. Giới trẻ Việt lấy Mỹ là chuyện bình thường.

Làn ranh phân chia với dân bản xứ ở Mỹ hay Âu Châu ngày càng phai nhạt tuy sẽ không bao giờ bị xoá hẳn.

Trong khi đó thì làn ranh chia cắt khối di dân Hồi với dân bản xứ thì trái lại, ngày càng lớn rộng, nhất là tại Âu Châu. Vì dân Hồi không chịu hội nhập.

Mới đây, nhà văn Bruce Bawer đã phát hành một cuốn sách với tựa là “Trong Khi Âu Châu Ngủ” –While Europe Slept-. Trong cuốn sách, ông Bawer tự giới thiệu như là người Mỹ, thành phần bảo thủ về chính trị, nhưng cấp tiến trong các vấn đề xã hội. Là người đồng tính, ông từ bỏ Mỹ, cùng “ông vợ” qua sống tại Amsterdam, bên Hoà Lan, vì cho rằng xứ Hoà Lan tiến bộ, cởi mở, nhất là chấp nhận đồng tính, yêu chuộng hoà bình, dễ sống, không có bắn giết loạn đả như Mỹ, không kỳ thị như dân Mỹ,... Rất nhiều lý do. Toàn là những lý do phản ảnh tư tưởng phóng khoáng cởi mở.

Ông qua Amsterdam. Sau một thời gian, di cư qua Na Uy mà ông cho là còn cởi mở hơn nữa vì tại đây ông được chính thức thành hôn cùng “ông chồng”.

Chẳng bao lâu sau, ông ngã ngửa về lối sống của khối di dân Hồi và quyết định viết sách. Quyển sách của ông, ngoài cái tựa trên, còn được phụ đề thêm “Hồi giáo cực đoan đã phá tan Tây Phương từ bên trong như thế nào” –How Radical Islam Is Destroying the West From Inside.

Kẻ viết xin tóm lược vài điểm chính của ông Bawer để quý độc giả có thể hiểu biết hơn về khối di dân Hồi giáo.

Như đã viết, các khối di dân Hồi tại Âu Châu tuyệt đối không chấp nhận hội nhập, tìm đủ cách sống tách biệt, nếu không muốn nói là tích cực chống lại mọi nếp sống và văn hoá địa phương. Việc không hội nhập đó lại được các chính quyền Tây Phương tích cực khuyến khích nhân danh việc tôn trọng và bảo tồn văn hoá khác biệt, theo đúng thuyết phải đạo chính trị. Ông Bawer nghi ngờ đó chỉ phản ánh tính kỳ thị của dân Tây Âu. Dân Hồi được cho vào sinh sống, nhưng không được nhìn nhận hay chấp nhận như dân địa phương thật.

Không hội nhập cũng được thể hiện qua việc không tham gia các sinh hoạt hay nếp sống và văn hoá, hay chính trị địa phương. Các bà vẫn mặc áo dài đen chùm kín cả người chừa hai con mắt hay cái mặt là tối đa. Vẫn không đi làm nhưng không quên đi xin trợ cấp, không ra đường một mình, lúc nào cũng đi cùng một đám bạn bè hay chị em, hay đi với một người đàn ông, là chồng hay anh em, chú bác gì đó. Lạng quạng vẫn bị chồng đánh, nhẹ thì một bạt tai, nặng thì vô nhà thương, nhưng chính quyền không can thiệp mặc dù có luật bảo vệ phụ nữ đàng hoàng. Những luật này chỉ áp dụng cho dân địa phương mà không được thi hành một cách triệt để đối với dân Hồi vì “tôn trọng văn hoá Hồi”. Một nghiên cứu cho thấy 90% phụ nữ Hồi bị ăn đòn thường xuyên.

Trẻ con chỉ một số nhỏ theo học tại các trường công bình thường. Đa số còn lại được đi học theo hai cách. Một là theo học các trường 100% Hồi giáo, cũng là trường công do Nhà Nước Tây Âu đài thọ, nhưng trong đó, dạy những môn khác, phần lớn liên quan đến tôn giáo, văn hoá và lịch sử Hồi (giống như trường tiểu học Hồi mà anh bé con Barack Obama đã theo học tại Indonesia trong bốn năm từ năm 6 tuổi), ít chú trọng đến những môn khoa học, văn hoá, lịch sử Âu Tây.

Cách thứ hai là nếu gia đình có tiền, thì gửi con về quê nhà, các nước Hồi giáo, cho học nội trú tại các trường giống như các chủng viện Thiên Chúa giáo, thường là bắt đầu từ khi 12-13 tuổi cho đến trưởng thành.

Tất cả trẻ con đều được dạy dỗ ngay từ nhỏ là văn minh Tây Phương và Thiên Chúa giáo là văn minh của ma quỷ, phản đạo, phải triệt để truy diệt. Ngày xưa Tiên Tri Mohammed chủ trương giết hết những kẻ ngoại đạo, bây giờ dĩ nhiên không còn giết ai được nữa, nhưng vẫn còn bổn phận chống đến cùng, dưới đủ mọi hình thức. Đặc biệt là học sinh nam phái, luôn luôn được khuyến khích phải dám dùng bạo lực. Tại các “chủng viện” dành cho nam phái bên Trung Đông, chúng thường được huấn luyện xài súng, xài dao. Để chúng làm quen, không sợ máu, chúng được huấn luyện giết dê giết cừu còn sống bằng dao, cắt cổ, lột da, mổ lấy tim gan, moi ruột, máu me be bét.

Phần lớn con gái ngay từ nhỏ đã phải chịu mổ, cắt một bộ phận nơi âm hộ. Với lý do phụ nữ không thể biết được cảm giác “khoái lạc” để bảo đảm sau này không lăng nhăng. Dĩ nhiên mổ chẳng theo tiêu chuẩn y khoa gì, chẳng thuốc mê, chẳng thuốc khử trùng, nạn nhân đau đớn khủng khiếp đến cả tháng sau cũng ráng chịu, thậm chí bị nhiễm độc nặng, bất đắc dĩ lắm mới cho đi nhà thương.

Những đứa trẻ đó, cho dù là lớn lên bên Tây Âu hay trong các chủng viện bên Trung Đông, đến tuổi lập gia thất thì đều phải lấy người đồng chủng, đồng tôn giáo, một số lớn là họ hàng xa gần với nhau, hay người cùng làng. Thanh niên, thanh nữ mà cặp với dân địa phương thì bị cả nhà sỉ vả, coi như nỗi nhục quốc thể. Sẽ bị bố mẹ và cả họ xúm lại sỉ vả, đánh đập là chuyện bình thường, thậm chí bị chính người thân như anh em, hay chú bác, hay ngay cả ông bố giết chết. Thông thường thì khi khám phá ra có con cặp với dân địa phương, đại gia đình có buổi họp với đầy đủ chú bác, thảo luận biện pháp trừng phạt. Lấy biểu quyết xem phải từ bỏ, hay đánh đòn, hay giết. Điều lạ lùng là đối với những vụ này, người có quan điểm sắt máu nhất thường chính là ông bố.


Đàn bà con gái lỡ ra đường bị hãm hiếp sẽ bị giết vì đã trở thành vết nhơ cho gia đình. Nhà Nước không truy lùng thủ phạm. Nếu thủ phạm bị bắt tại trận, thì chỉ bị phạt vạ tượng trưng.

Hôn nhân tuyệt đại đa số vẫn là do gia đình hai bên dàn xếp mà cô dâu chú rể không có tiếng nói. Cô dâu ngay từ ngày làm đám cưới và đêm động phòng đã là một nô lệ sex của chồng, chồng muốn làm gì thì phải chiều ý. Khiếu nại hay than phiền sẽ bị cả họ nhiếc mắng, kể cả mẹ ruột. Luật pháp Tây Âu không cho có bốn vợ nữa, nhưng nếu ông chồng có vài bà cô đào nhí thì cũng là chuyện bình thường, vợ cấm khiếu nại. Ngược lại, vợ mà dám ra đường một mình hay liếc nhìn một anh nào thì có thể bị đòn hội đồng, cả nhà xúm vào đánh, kể cả bố mẹ và các anh chị em. Bị bắt ngủ với trai sẽ bị ném đá đến chết.

Đối với những tệ nạn bất nhân trên, Tây Âu nhắm một mắt, phần lớn cố tình lờ đi, hay xử phạt rất nhẹ, cũng chỉ vì lý do phải đạo chính trị, tôn trọng văn hoá Hồi, trong khi các lãnh đạo cộng đồng cực lực cổ võ.

Phần lớn là di dân đã qua Tây Âu trước sẽ làm đám cưới với người hôn phối vẫn còn bên quê nhà. Sau đám cưới, người hôn phối qua Tây Âu, được bảo lãnh, mang theo cả đại gia đình, kể cả chú bác, anh chị em họ.

Các cộng đồng Hồi giáo lớn rất nhanh. Vì lý do “nhân đạo”, cởi mở trong tinh thần hoà đồng, di dân được nhận vào Tây Âu rất dễ dàng. Nhưng lý do quan trọng hơn là nạn nhân mãn. Dân Tây Âu ham vui, không chịu đẻ, dân số ngày càng tuột dốc mau lẹ. Các nước Tây Âu rất cần nhân công để nuôi dưỡng kinh tế. Nhất là các đại cường kinh tế Đức, Anh và Pháp, do đó việc nhận di dân rất dễ dàng. Đây cũng là lý do quan trọng khiến Âu Châu đang nhận cả trăm ngàn dân Syria tỵ nạn.

Các cộng đồng Hồi, đại đa số là những dân nghèo từ các tỉnh nhỏ hay làng mạc, ít học, không có tay nghề, mà lại không chịu hội nhập, không đi học nghề để đi làm. Do đó là một gánh nặng vĩ đại cho các nước theo chủ trương xã hội Tây Âu. Tại Đan Mạch, di dân Hồi chỉ khoảng chưa tới 5% tổng dân số, nhưng họ lãnh tới 40% trợ cấp của Nhà Nước.

Trợ cấp là một vấn đề lớn mà Tây Âu đang bối rối, nhất là các nước Bắc Âu, nơi mà trợ cấp rất dễ dãi và rất nhiều. Một gia đình hai vợ chồng và hai con, có thể có trợ cấp xấp xỉ 5.000 đô một tháng dễ dàng. Từ trước đến nay, các chế độ bao cấp này tồn tại được vì dựa trên tinh thần tự trọng và trách nhiệm của người dân. Bình thường, họ rất ngại đi xin trợ cấp và chỉ xin trong tình trạng miễn cưỡng. Bây giờ, đối với khối dân Hồi, lấy trợ cấp là chuyện phải làm, không làm là ngu. Họ tìm đủ cách gian trá để có trợ cấp đủ loại. Họ quan niệm tìm đủ cách kể cả gian lận để lấy tiền của tụi ngoại đạo là chuyện tuyệt đối chính đáng được kinh Kuran khuyến khích. Đám ngoại đạo chưa bị giết hết là may cho chúng lắm rồi.

Những người lãnh đạo cộng đồng Hồi không phải là những chính trị gia kiểu như thị trưởng, hội đồng tỉnh, dân biểu, v.v… Cũng chẳng phải những vị lãnh đạo các hội đoàn như trong cộng đồng Việt chúng ta. Dân số Hồi tại Tây Âu khoảng từ 5% đến 20% dân số quốc gia họ sinh sống, nhưng không có dân biểu, nghị sĩ, hay bộ trưởng, thủ tướng, hay tướng lãnh nào. Không phải di dân Hồi không có người giỏi, mà chỉ vì họ từ chối hội nhập, nhất là trên phương diện chính trị.

Lãnh đạo các cộng đồng Hồi là các giáo sĩ, imams gì đó. Đại đa số rao giảng tôn giáo Hồi trong khi sỉ vả văn minh, văn hoá và tôn giáo Tây Âu. Họ tự cho có trách nhiệm phải bảo vệ văn hoá, văn minh và tôn giáo Hồi, bằng mọi cách chống sa đọa của Âu Châu. Họ toàn quyền tự do sỉ nhục tất cả những gì hay những ai họ chống lại, mà không có chính quyền nào đụng tới, nhân danh tự do tín ngưỡng và tự do ngôn luận. Chẳng có gì lạ khi trong các cộng đồng đó, sinh xôi nẩy nở ra những tên khủng bố máu lạnh nhất vì đã sống và lớn lên trong cái không khí thù hận đó. Chẳng những chống Tây phương không, mà còn quyết tâm không ngại sử dụng bạo lực tàn ác nhất như súng bom để giết người, chẳng cần biết già trẻ lớn bé, vì tất cả dân ngoại đạo đều có tội hết.

Phản ứng của các cộng đồng Hồi đối với các vụ khủng bố tấn công rất ý nghiã. Thế giới có hơn một tỷ dân Hồi, nhưng mỗi khi có khủng bố đánh, chỉ có vài nhúm lẻ tẻ vài chục hay vài trăm người phản đối. Ngược lại, một số không nhỏ biểu tình hoan hô khủng bố, và tuyệt đại đa số im lặng. Sau vụ San Bernardino, một lãnh tụ Hồi tại Los Angeles lên TV, khẳng định khủng bố đánh một phần lớn do lỗi Tây Phương vì đã ủng hộ các chế độ độc tài tại Trung Đông.

Cuốn sách khá dầy và có rất nhiều mẫu chuyện nhỏ phản ánh lối sống trong các cộng đồng Hồi giáo. Ta thấy đây là những ổ nuôi dưỡng tinh thần chống Tây Phương, mặc dù anh chị di dân nào cũng tìm đủ cách chạy qua những vùng đất ngoại đạo đáng phỉ nhổ đó để sống. Tại sao có cái mâu thuẫn đó? Một số không nhỏ qua Tây Âu sống vì lý do sinh kế và an toàn, nhưng một phần lớn được các giáo sĩ khuyến khích như đây là cách chiếm và trừng phạt thế giới, phát huy Hồi giáo mà không cần đến mấy chục sư đoàn lính.

Điều hiển nhiên nhất là muốn chống đỡ có hiệu quả nạn khủng bố, thì phải nhìn ngay vào bên trong những cộng đồng Hồi đó, không cần nhìn xa hơn, không cần nhìn vào khối tỵ nạn đang chờ được chấp nhận vào. Và điều kiện tiên quyết dĩ nhiên là phải nhìn nhận khủng bố hiện nay chính là từ trong khối Hồi giáo cuồng tín, phải dám nói đến danh từ “Hồi giáo”.

Khi một anh thiếu tá quân y Mỹ bắn chết một tá đồng ngũ, miệng la Allahuh Akbar, mà không dám coi đó như là khủng bố Hồi giáo cuồng tín, lại gọi đó là bạo động tại sở làm, thì hiển nhiên, đó là cách vùi đầu dưới cát để trốn tránh sự thật. Một khi chui đầu dưới cát để không nhìn thấy địch thủ thì làm sao đánh địch thủ được? Chưa đánh đã thấy từ bị thương đến chết thôi.

Vụ bắn tại San Bernardino cho thấy ngay cả Mỹ cũng có chính sách cho di dân Hồi vào rất dễ dưới TT Obama. Anh Farook, thủ phạm vụ bắn, qua Ả Rập Saudi làm đám cưới với vợ Malik tháng Bẩy, 2014, ngay sau đó, vợ được theo chồng về Mỹ bằng thông hành Pakistan, tháng Tám làm đám cưới Mỹ tại Los Angeles, tháng Chín bà vợ được cho ở lại Mỹ trong khi chờ đợi thẻ xanh được cấp tháng Bẩy 2015.

Dân tỵ nạn ta chắc sẽ có nhiều người thắc mắc sao dễ dàng như vậy trong khi dân Việt muốn bảo lãnh vợ hay chồng từ VN qua phải mất mấy năm. Có lẽ dưới TT Obama, chính sách di dân với dân Hồi được ưu tiên? Trong 5 năm qua, 680.000 di dân từ các xứ Hồi giáo, đặc biệt là Ai Cập, Iraq, và Pakistan, đã được lặng lẽ cấp thẻ xanh rất mau lẹ, trong khi thiên hạ không biết, chỉ lo tranh cãi về số 10.000 dân tỵ nạn Syria TT Obama muốn cho vào thêm.

Khi bài này được viết thì có tin bà vợ của Farook đã tuyên thệ trung thành với al Baghdadi, lãnh tụ ISIS, buổi sáng trước khi xẩy ra vụ bắn. Có nghĩa là ISIS đã tới Mỹ trái với tất cả những bảo đảm của TT Obama. Việc này sẽ đặt lại vấn đề hữu hiệu của những biện pháp thanh lọc dân tỵ nạn Syria mà TT Obama quảng bá.

Một phản ứng mang nhiều ý nghiã: sau vụ San Bernardino, TT Obama cho biết đây chưa rõ là khủng bố hay bạo động sở làm, trong khi kêu gọi phải siết chặt việc kiểm soát súng. Thưa tổng thống, cặp vợ chồng có hơn một tá “pipe bombs” và một kho đồ nghề làm “EID bombs”, để làm gì, mang vào sở làm đánh ông xếp? Tuyên thệ trung thành với ISIS trước khi đi bắn thiên hạ vẫn chưa là bằng chứng khủng bố? Tổng thống nghĩ cấm bán súng sẽ hết khủng bố sao? EID đâu có được bán ngoài chợ thiếc ở khu phố Tàu đâu, sao chúng vẫn có? Tổng thống cấm hay không cấm súng cũng chẳng có tác dụng gì hết.

Hiển nhiên, TT Obama cần phải rút đầu ra khỏi cát, trực diện vấn đề một cách nghiêm chỉnh hơn, và sáng tạo hơn mới có thể chống được khủng bố. (06-12-15)

Vũ Linh

Quý độc giả có thể liên lạc với tác giả để góp ý qua email: [email protected]. Bài của tác giả được đăng trên Việt Báo mỗi thứ Ba.

Ý kiến bạn đọc
05/01/201603:02:52
Khách
"Obama lại còn muốn cho cả khối dân Hồi giáo vào nữa", Vũ Linh.

Có ít xít ra nhiều . Đừng viết quá chớn nhá Vũ Linh . Theo báo USAToday, tổng số người theo đạo Hồi giáo sang sống ở Mỹ tính từ năm 1992 tới nay là một triệu bảy trăm ngàn người . Trong những năm vừa qua, mỗi năm, chỉ có khoảng một trăm ngàn người theo Hồi giáo được thu nhận vào Mỹ . Về người tỵ nạn Syrian, Obama dự định chỉ nhận mười ngàn người trong năm tới 2016. Trong khi đó, Đức quốc sẵn sàng thu nhận tám trăm ngàn người .
Trich tu chia se cua ban Hung Nuyen trong bai Nuoc My don nen..
09/12/201522:12:18
Khách
Tôi thích và đồng ý với Ông YÊU CÔNH BẰNG về TT Obama.
09/12/201518:12:57
Khách
Xin hỏi ông khách nào bảo Obama là hồi giáo, có bằng chứng hay video clips gì không? Nếu bảo là tại vì ông cho hồi giáo di dân vào Mỹ, thì bây giờ ong Donald Trump cũng bị các đồng đảng GOP chống đối vì ông Trump muốn cấm dân hồi di dân vào Mỹ, như thế thì các đồng đảng GOP của ông Trump củng là hồi giáo à.
Còn cái câu hỏi "bộ cấm bán súng thì hết khủng bố à" củng như hỏi cái câu: bộ cấm chạy xe quá tốc độ thì không còn người chạy xe quá tốc độ à. Nó không loai bỏ hoàn toàn nhưng nó giúp cho việc bắn súng tại Mỹ giảm đi. Trong 336 ngày qua, Pháp bị 1 trận khủng bố, (cái vụ bắn truoc đã quá 336 ngày), Úc bị một, Canada bị 2, Mỹ bị 354 vụ. Nếu nói nếu người dân có vũ khí sẽ bắn lại bọn khủng bố, thế có ai thấy dân thường bắn lại dân khủng bố chưa, hay chỉ toàn cảnh sát bắn? Mà nếu giả sử như mọi người có súng bắn lại thì khi cảnh sát đến, người nào củng bắn, biết ai xấu ai tốt? Đạn không có mắt, trong lúc náo loạn ai củng bắn có khi kẻ xấu không chết, mà chết toàn người qua đường. Cái vụ bắn súng của hai nhóm motocycles ở waco texas, chỉ vì cái chổ đậu xe, một thằng rút súng, cả nhóm rút súng bắn loạn đã, cuoi cùng 9 nguoi chết, cả chục nguoi bi thuong vì kênh nhau thôi.
09/12/201505:08:35
Khách
Rất dễ để trả lời, vi Obama là nguời Hồi Giáo ẩn mình. Khi bị hỏi, Obama sẽ nói là Tin Lành. Kiểm chứng hành động sẽ biết được cá nhân là ai, đang nghĩ gì, làm gì; và phần lớn đều đúng sau một thời gian.
09/12/201502:51:51
Khách
Quote : " ISIS đã tới Mỹ trái với tất cả những bảo đảm của TT Obama."
Đừng đỏ lỗi cho "đáng tên tri".
Những "người" ủng hộ... .o bá mà ... đã .tự mình dẫn khủng bố vào Mỹ
09/12/201500:03:54
Khách
Tay nghề đây phải hiểu là nghề đổ rác, quét đường, lau cửa sổ của những nhà chọc trời, etc. Người Tây Âu do lịch sự nên họ nói trại ra để không bị mang tiếng là giới trưởng giả. Đó cũng là lý do tại sao người tỵ nạn Trung Đông thích đi xin trợ cấp hơn.

Hy vọng những giòng chữ này thỏa mãn thắc mắc của bạn.
08/12/201521:56:35
Khách
Thưa ông khách gì đó, chánh phủ của những nước đó không nhận ra "cái điểm chết người" này nên không chịu sửa đổi chính sách nhận di dân tràn lan nên ngày nay lãnh đủ. Cho nên tin mới nhất ở Pháp, bầu cử sơ bộ vòng 1 thì đảng cực hữu của Le Pen thắng lớn, coi như là cách dân chúng trừng phạt các cấp chính quyền mị dân, không chịu nhận ra những sai lầm trong chính sách di trú, xã hội của mình.
08/12/201513:53:04
Khách
Thưa ông Vũ Lịnh.
Đọc bài trên ,tôi thấy có một điều mâu thuẩn :
Khi nói các nước Tây âu khi nhận người gốc Trung Đông vào ,họ cố ý khai thác tay nghề của công nhân vì họ đang có khó khăn về vấn đề dân số.Trong khi đó phần dưới bài lại nói đại đa số người này không mau mắn hội nhập vào xã hội Tây phương kể cả việc đi làm để sông mà lại thích đi xin trợ cấp xã hội.
Như vậy qua cã một thời gian dài ,không lẽ những Chanh phủ những nước đó họ không nhìn ra được cái điểm chết người này hay sao?
Đây chỉ là một điều thắc mắc không phải chỉ trong bài viết này ,mà tôi cũng có khi đọc các bài của những người khác nhưng không biết hỏi ai ,đành hỏi ông vậy nhé.Nếu đươcf giãi thích thì rất cám ơn ông.Bye.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm Thứ Sáu 26/9, Tổng Biên Tập JEFFREY GOLDBERG của tạp chí The Atlantic gửi ra tuyên bố phản đối lệnh của Ngũ Giác Đài về việc áp đặt, kiểm duyệt báo chí. Tuyên bố ghi rõ: “Về cơ bản, The Atlantic phản đối những hạn chế mà Ngũ Giác Đài đang cố gắng áp đặt đối với các nhà báo đưa tin về vấn đề quốc phòng và an ninh quốc gia. Những yêu cầu này vi phạm quyền Tu Chính Án Thứ Nhất của chúng ta, và quyền của người Mỹ muốn biết hình thức khai triển nguồn lực và nhân sự vốn do tiền thuế của người dân tài trợ. Những quy định này cũng phá vỡ các thông lệ lâu đời - dưới thời tổng thống của cả hai đảng, trong suốt thời kỳ chiến tranh và khủng hoảng quốc gia - vốn cho phép các phóng viên Ngũ Giác Đài thực hiện công việc của mình mà không bị can thiệp chính trị.” The Atlantic đăng tuyên bố này trên trang mạng xã hội chính thức của tạp chí.
Chuyện phải, trái ở đây không hẳn là chuyện đúng, sai mà đúng ra là chuyện bên phải (khuynh hữu hay thiên hữu) và bên trái (khuynh tả hay thiên tả) trong chính trị Mỹ. Tất nhiên, trên đời này mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Trong chính trị cũng thế, đã có cánh phải thì ắt có cánh trái, vì đó không những là bản chất tương đối của mọi sự mọi vật mà còn là hiện tượng phải có trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, nền chính trị Mỹ trong những năm gần đây đã bị phân cực và phân hóa trầm trọng. Thể chế dân chủ kiểu mẫu của Mỹ xưa nay đương nhiên chấp nhận sự khác biệt vì đó là một trong những yếu tính ắt có của một nền dân chủ thật sự. Nhưng đẩy sự khác biệt của mình đến mức cực đoan và biến sự khác biệt của người khác thành kẻ thù bất dung thì là hiện tượng biến dạng nguy hiểm báo hiệu sự sụp đổ của nền dân chủ. Nước Mỹ trong những năm gần đây đã chứng kiến nhiều hiện tượng cực đoan như thế.
Với sự tham gia của khoảng 100.000 binh sĩ, cuộc diễn tập quân sự Nga-Belarus mang tên “Zapad 2025” đang được khối NATO theo dõi chặt chẽ và các quốc gia phía đông của liên minh cực kỳ lo ngại, đặc biệt nhất là sau khi các máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên bầu trời Ba Lan. Cuộc tập trận này vẫn diễn ra theo chu kỳ bốn năm một lần, nhưng lần này, chính giới và công luận xem đây là phép thử đối với khả năng phản ứng của NATO trong bối cảnh địa chính trị mới. Để đối phó, NATO và Ukraine đang tăng cường các biện pháp an ninh, khi nguy cơ chiến tranh được đánh giá là ngày càng leo thang. Kinh nghiệm từ năm 2022 cho thấy Nga đã tiến hành các cuộc tập trận trước khi mở cuộc tấn công vào Ukraine. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có lặp lại không và tình hình hiện nay nghiêm trọng đến mức nào?
Khi chính phủ liên bang đe dọa cắt hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu cho Harvard, đó không chỉ là một quyết định ngân sách. Đó là một phép thử cho chính nền tảng dân chủ: liệu chính quyền có thể dùng sức mạnh tài chính để định đoạt tư tưởng hay không. Tòa án liên bang vừa trả lời dứt khoát: không.
Ở với cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội. Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Không rõ ABC có lường trước được phản ứng của cộng đồng, khán giả đối với hành động cúi đầu trước áp lực và quyền lợi, dẫn đến dừng ngay lập tức Jimmy Kimmel Live! hay không, nhưng thực tế đã cho thấy một làn sóng tức giận đã bùng nổ. Viên đạn dường như quay ngược lại, xé gió, đâm thẳng vào ba ký tự khổng lồ của đế chế truyền thông. Các cuộc tẩy chay Hulu và Disney+ bắt đầu. Trang mạng Disney+ bị sụp đổ vì lượng khán giả đăng nhập để “cancel subcription” trong đêm họ ra lệnh tắt đèn sân khấu; Disney mất gần $4 tỷ trên thị trường. Hàng loạt cuộc biểu tình phản đối trước trụ sở của ABC và Disney. Về phía các nhà báo, nghệ sĩ giải trí, các nhà lãnh đạo chính trị – từ Stephen Colbert đến David Letterman đến cựu Tổng thống Barack Obama – cùng lên án việc làm của ABC, coi đó là sự đầu hàng nguy hiểm trước áp lực chính trị và là phép thử đối với quyền tự do ngôn luận.
Nhìn vào những gì đang diễn ra tại nước Mỹ hiện nay, người ta không thể không liên tưởng đến cuộc cách mạng văn hóa tại Trung Quốc như vậy. Cũng là cuộc tấn công vào những gì bị cho là khuynh tả, là sự tập trung quyền lực vào một cá nhân qua phong trào cuồng lãnh tụ với những vệ binh trung thành chưa từng thấy tại Hoa Kỳ.
Người ta thường có nhiều cách định nghĩa về hy vọng. Hy vọng là một cảm xúc lạc quan, một niềm tin tươi sáng rằng mọi thứ chắc chắn sẽ được cải thiện. Hy vọng có thể đến từ một tiếng nói cá nhân xa lạ nào đó trong triệu triệu người trên thế giới này. Hy vọng có thể đến từ một bản tuyên bố chung của hai phong trào đối lập. Hy vọng là phải nhận ra rằng cái ác và sự bất công có thể chiếm ưu thế ngay cả khi chúng ta đang đối đầu với nó. Hy vọng là khi nhìn thấy rõ một bên sáng và một bên tối, thấu hiểu rằng vòng cung của vũ trụ đạo đức có thể không uốn cong về phía công lý – nhưng chúng ta không tuyệt vọng. Hy vọng, là khi một đêm vinh danh nghệ thuật trở thành nơi hàng trăm người giơ cao ngọn đuốc tôn vinh sự kiên cường, tiếng nói dũng cảm, như một lời nhắc nhở với thế giới rằng nghệ thuật và nhân văn là không thể tách rời.
Donald Trump từng bóng gió rằng mình xứng đáng được khắc tượng trên núi Rushmore, sánh vai cùng những bậc khai quốc công thần nước Mỹ. Bên kia Thái Bình Dương, Tập Cận Bình chẳng màng đá núi, nhưng ôm mộng lọt vào sử xanh, đặt mình ngang hàng những “đại thánh đế vương” của đảng và đất nước. Bởi thế, cuộc duyệt binh rùm beng ở Thiên An Môn vừa rồi không chỉ là phô trương cờ trống rình rang, mà là lời tuyên cáo giữa chiến địa, là tiếng trống thúc quân của một kẻ đang gấp gáp thúc ngựa đuổi theo bá mộng thiên cổ.
Bạn, tôi, chúng ta, không ai an toàn trước bạo lực súng đạn ở Mỹ. Chắc người Mỹ chưa kịp quên hình ảnh người mẹ tất tả chạy trên đôi chân trần, tìm con trong vụ xả súng mới nhất ở Annunciation Catholic School in Minneapolis tháng vừa qua. Những đứa trẻ xứng đáng có đời sống an toàn để đến trường mỗi ngày và trở về an toàn trong vòng tay cha mẹ. “Thay vì kích động thêm bạo lực, các nhà lãnh đạo chính trị nên tận dụng thời điểm này để đoàn kết chúng ta hướng tới những thay đổi hợp lý về súng đạn mà đa số người Mỹ ủng hộ,” Giáo sư Robert Reich đã nói như thế.



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.