Hôm nay,  

Họa sĩ Đinh Cường

09/01/201603:28:00(Xem: 11727)
Họa sĩ Đinh Cường
 
Đặng Phú Phong

Họa sĩ Đinh Cường vừa mới đi vào cõi miên viễn. Một điều đau buồn cho giới văn nghệ sĩ. Người viết bài này cũng có cơ duyên quen biết với ông, định viết ông khá lâu nhưng cứ lần lựa...cho đến khi quyết định xuất bản cuốn Bên kia con chữ& nghệ thuật mới tiếp cận, trao đổi với ông nhiều và bài viết đã thành hình. Hôm in xong cuốn sách, lập tức gửi ngay. 5 ngày sau Đinh cường nhận được, phone cho ngay bày tỏ sự hài lòng về cuốn sách mặc dù ông than đang "mệt lắm vì chích thuốc giảm đau". Và. chỉ khoảng 10 ngày sau anh từ bỏ tất cả. Đã biết rồi anh sẽ đi, nhưng khi hay tin, lòng vẫn không tránh khỏi bàng hoàng, tiếc nuối. Xin đăng tải bài này như một lời chia tay với Họa sĩ Đinh Cường.



ĐINH CƯỜNG

blank

.
Tiểu sử

Họa sĩ Đinh Cường tên thật là Đinh văn Cường, sinh năm 1939 tại Thủ Dầu Một.

1951-1957: Học sinh trường Trung học Pétrus Ký, Sài Gòn.

1963: Tốt nghiệp Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế.

1964: Tốt nghiệp Giáo Khoa Hội Họa Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định.

1962, 1963: Huy chương bạc Triển Lãm Mùa Xuân, Sài Gòn. (*)

1962: Giải thưởng Đệ Nhất Triển Lãm Quốc Tế Mỹ Thuật Sài Gòn – do Tòa Đại Sứ Trung Hoa (*)

1963: Tranh dự Triển Lãm Quốc Tế Lưỡng Niên tại Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật Cận Đại Ba Lê

1964: Triển Lãm với Tôn Nữ Kim Phượng, Trịnh Cung tại Phòng Thông Tin Sài Gòn

1964: Triển Lãm tại Washington DC, do nhà sưu tập James L. Brogdon

1964: Tranh dự Triển Lãm Mỹ Thuật Quốc Tế tại Tunis (Tunisie)

1965 – 1967: Giáo sư hội họa trường Nữ Trung Học Đồng Khánh, Huế.

1966: Tranh dự Triển Lãm Mỹ Thuật Quốc Tế tại Tokyo

1967 – 1979: Giảng dạy tại trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế

1968: Tranh dự Triển Lãm Mỹ Thuật Quốc Tế tại New Dehli

1967, 1969: Tranh dự Triển Lãm Mỹ Thuật Quốc Tế tại Sao Paulo

1968: Tranh dự Triển Lãm Hội Họa Việt Nam tại Washington DC, Toà Đại Sứ VNCH bảo trợ

1974: Tranh dự Triển Lãm South- East Asia Art Exhibition, Singapore

– Tháng 2 -1990 tại McLean, Virginia USA

– Tháng 6 -1991 tại Georgetown Art Gallery, Washington DC, USA

– Tháng 9 -1991 tại Le Jardin du Boisé, Montréal, Canada

– Năm 1993 được Smithsonian Museum, Washington, DC chọn Triển Lãm An Ocean Apart.

– Năm 1994 tại Metro Gallery, George Mason University, Virginia

– Năm 2005 tại Viet Art Gallery, Houston, Texas

– Năm 2010 tại Annam Heritage, Paris

.
Đinh Cường, màu xanh miên viễn

Đinh Cường  là một họa sĩ tên tuổi lớn trong lĩnh vực hội họa Việt Nam. Ông sinh sống bằng số lượng tranh bán được và bằng những việc có liên quan đến hội họa. Từ những năm 1962, 1963 là những năm ông còn học ở  trường Cao đẳng Mỹ Thuật Huế và sau đó là Gia Định, ông đã nhận 2 huy chương về hội họa mang tầm vóc quốc gia.

Đinh Cường vẽ tranh theo nhiều thể loại nhưng hầu hết là sơn dầu trên canvas. Tuy nhiên căn cứ theo cách sáng tác của ông, tôi có thể tạm chia làm 2 mảng:                           

.

1/ Tranh phong cảnh và tĩnh vật, chân dung, thiếu nữ, tôn giáo, minh họa… gọi chung là tranh hình-tượng (figuration) và bán-hình-tượng (Semi-figuration).
.

2/ Tranh trừu tượng

Nhưng hai mảng này không ở từng thời kỳ khác nhau mà luôn luôn đi song song  trong sự nghiệp sáng tác của ông.

Trong mảng một, đáng chú ý nhất trong tranh Đinh Cường là tranh thiếu nữ. Phải nói là hầu như tất cả những thiếu nữ ông vẽ đều mang dáng dấp các cô tiểu thư Huế; dẫu cho không gian trong tranh là Đà Lạt, Sài Gòn, Paris hay San Francico.  Cái dáng dấp “mình hạc xương mai”, khuôn mặt thon, bờ vai nhỏ, tà áo dài trang nhã và cái cổ đã vượt khỏi chữ cao – mà phải dùng chữ dài để diễn tả.
.

blank

Huế Nostalgia. Sơn dầu 24 x 30 in

.

Ở đây, có lẽ chúng ta phải nhắc đến sự ảnh hưởng của Amadeo Modiliani đối với giới họa sĩ Việt Nam một chút. Amadeo Modigliani (1884-1920) gốc Do Thái, sinh ở Linorvo, Ý là một họa sĩ tài ba nhưng sống trong nghèo khổ, bịnh hoạn đến sau khi chết tranh của ông mới được thiên hạ ngưỡng mộ, trọng vọng. Modigliani đã thổi vào giới mỹ thuật một cái đẹp mới mẻ của người đàn bà là thân thể không còn tròn trịa nữa mà thong dong; tay, chân, gương mặt dài ra. Tranh và tượng điêu khắc của ông đã thể hiện điều này một cách gần như tuyệt đối. Hình dáng người thiếu nữ trong tranh Modigliani lan tỏa ra khắp nơi trên thế giới. Và ở  miền nam Việt Nam nó đã được du nhập vào khoảng  cuối thập niên 1950. Đinh Cường là một trong nhiều họa sĩ Việt nam ảnh hưởng lối vẽ thiếu nữ của Modigliani. Nhưng, Đinh Cường đã Việt hóa người thiếu nữ trong tranh của Modigliani. Hay nói đúng hơn những tiêu chuẩn về người nữ của Modigliani được Đinh Cường thay đổi cho phù hợp với người Việt hơn. Gương mặt hơi ngắn lại, bầu ngực không to không căng tròn, mái tóc buông dài, chiếc áo dài thướt tha. Những chi tiết này kết hợp với thân hình “gầy guộc” “xanh xao” (mượn chữ Trịnh Công Sơn) để trở thành vóc dáng một cô gái Huế quả là một cái đẹp hết sức thanh tân. Về điểm này tôi cho rằng những cô gái Huế đã nợ Đinh Cường (cũng cần thêm họa sĩ Nguyên Khai nữa) một món nợ tinh thần rất lớn. Thiếu nữ trong tranh Đinh Cường là thiếu nữ Huế!

.

Trong tranh phong cảnh của Đinh Cường , ông đã dùng phần nhiều cảnh vật ở Huế, và một số nơi chốn khác, ít hơn, như một vài nơi ở Việt Nam, ở Paris và ở Mỹ. Nhưng có một nơi mà Đinh Cường dùng làm bối cảnh để vẽ, rất nhiều, có thể không thua Huế, là Đà Lạt. Phong cảnh Đà Lạt vốn dĩ thật trữ tình, thơ mộng, bầu trời Đà Lạt khói sương lãng đãng, rất gần gũi với màu xanh, một màu mà Đinh Cường rất chuyên tay. Có lẽ vì thế mà ông đã đến với Đà Lạt, yêu Đà Lạt, chọn nhà thờ con gà, những biệt thự rêu phong, âm u dưới sương mờ xám pha sắc xanh hoang vắng , xí phần làm của riêng trong tranh ông. Ngắm tranh Đà Lạt của Đinh Cường, tôi nghĩ rằng nếu không có một tình yêu thật sâu thẳm, thật nồng thắm, thật đặc quý  với thành phố này thì ông khó có thể có được nhiều tranh đẹp  như mộng tưởng được. Tôi ngờ rằng ngoài tình yêu Đà Lạt ông còn có chút tình quyến luyến nào đó khác, chăng?
.

blank

                             Chiều qua nhà thờ con gà - ĐàLạt

.

Có một điều khá đặc biệt trong tranh về Huế của Đinh Cường là khi nói đến màu sắc Huế người ta thường nghĩ đến màu Tím (trong nhân gian đã có chữ Màu tím Huế); nhưng khi  vẽ Huế,  Đinh Cường rất ít xử dụng đến nó. Ở điểm này ta thấy sự khác biệt giữa ông và họa sĩ Nguyên Khai- một người xử dụng màu tím rất nhiều cho tranh về Huế.



blank

ĐỂ NHỚ HUẾ (oil on canvas 16 x 22 in)

.

Trong mảng một, có một phần cũng rất là quan trọng trong sự nghiêp của Đinh Cường , đó là phần vẽ chân dung. Đinh Cường vẽ chân dung văn nghệ sĩ rất nhiều. Chỉ đếm sơ trên danh sách trong  dinhcuongblog những người ông đã vẽ là 97. Đặc biệt có những những người như Bùi Giáng, Trịnh Công Sơn ông vẽ đến bốn, năm chục bức. Là một người quảng giao, bạn bè của Đinh Cường rất nhiều, nhất là trong giới văn nghệ; bạn bè ai cũng thích được ông vẽ chân dung của mình, do vậy số lượng của loại tranh này thật đáng nể. Đa số tranh chân dung ông đều vẽ theo trí nhớ, ông không lấy sự giống về hình thức mà cố gắng lột tả cái thần của người được vẽ làm mục đích cho tác phẩm của mình.  Mỗi tranh chân dung ông vẽ đều là một tác phẩm. Nhân vật trong tranh qua những vệt sơn  hào phóng nhưng chắc chắn , góc độ ánh sáng để làm chìm, nổi nhũng góc cạnh đặc biệt của riêng từng người. Ông cũng chú ý khá nhiều đến lối ăn mặc của nhân vật, giúp người xem đôi khi không cần tìm tòi trên gương mặt, chỉ cần thoáng nhìn qua áo quần, người xem cũng có thể liên tưởng đến danh tính người trong tranh. Những tranh vẽ  chân dung Bùi Giáng rất điển hình cho cách nhận diện mạo của Đinh Cường. Hình như trong lối vẽ tranh chân dung, ông muốn có sự cộng tác của chính người được vẽ, nhìn sâu vào màu sắc, nhát cọ, bóng tối và ánh sáng để tìm ra những đặc trưng , đặc dị của chính họ, qua sự khám phá của Đinh Cường.
.

blank

Bùi Giáng

.

blank

Bóng mây. Tranh sơn dầu
.

Sang qua mảng hai, tranh trừu tượng. Đinh Cường, Lâm Triết, Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Phước, Lê Tài Điển ... là những họa sĩ đi vào thế giới của tranh Trừu tượng rất sớm của giới hội họa miền Nam Việt Nam. Với tài sử dụng màu cùng biên độ ánh sáng làm dậy sắc để bức tranh trể nên lung linh, thơ mộng, Đinh Cường  đã đem áp dụng vào tranh trừu tượng là loại tranh chủ tâm dùng màu để diển tả, do đó ông đã đến với tranh trừu tượng như một người nài chạy đua trên lưng con ngựa cũ, quen thuộc của mình. Thế giới trong tranh Trừu tượng của ông là thế giới của thi tính đầy sắc tố lãng mạn.  Ông xử dụng màu xanh, tôi gọi tên nó là Màu xanh miên viễn. Sâu, lắng, dịu dàng và cứ như trôi chảy, vượt qua khung bố, miên man đi khắp cả không gian khiến cho người xem chìm đắm trong một bầu trời mênh mông, thinh lặng. Ngoài màu xanh, Đinh Cường còn dùng một màu khác, cũng rất ư tài tình; đó là màu xám pha chút trắng xanh, màu của bầu trời Đà Lạt, kéo theo màu trời Paris sắc lạnh.

Cách xử dụng các màu vừa nói trên không chỉ dành riêng cho tranh trừu tượng, mà  ông vẫn áp dụng nó trên mảng tranh hình tượng thật đều đặn, thật lâu dài cho đến thời điểm hiện tại. Nếu có một cái nhìn đơn giản thì tranh Đinh Cường đầy lãng mạn, một kết hợp nhuần nhuyễn của hai nền hội họa Đông Tây.


Đặng Phú Phong

Trích : Bên Kia Con Chữ & Nghệ Thuật.


.
.

Ý kiến bạn đọc
10/01/201604:57:56
Khách
Cách xử dụng các màu vừa nói trên không chỉ dành riêng cho tranh trừu tượng, mà ông vẫn áp dụng nó trên mảng tranh hình tượng thật đều đặn, thật lâu dài cho đến thời điểm hiện tại. Nếu có một cái nhìn đơn giản thì tranh Đinh Cường đầy lãng mạn, một kết hợp nhuần nhuyễn của hai nền hội họa Đông Tây.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.