Hôm nay,  

Văn Hóa Đình Làng

12/01/201600:00:00(Xem: 7060)

Tổng quan
(Văn hóa Đình làng là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cộng đồng cùng với biểu hiện của dân tộc đã sản sinh ra hàng ngàn đời để thích ứng với hoàn cảnh cũng như những nhu cầu của đời sống tâm linh và đòi hỏi sinh tồn.

*Đình là không gian mở rộng, không phải là ngôi nhà bị vây kín bởi những bức tường và những khung cửa sổ luôn luôn bịt chặt, văn hóa Đình của mọi thành phần xã hội, mọi tín đồ tôn giáo như luồng gió tự do thổi vào ngôi Đình. Nhưng Đình không bị cuốn đi bởi bất cứ một tôn giáo nào. Nó mở mang trí óc và tâm hồn Lạc Việt.

*Văn hóa Đình là tất cả các hình thái thờ phụng tiền nhân của nghệ thuật, tình yêu đất nước và suy niệm về lịch sử, những thứ mà trong sự tồi tệ cũng như trải qua bao nhiêu thế kỷ đã khiến cho con người trở nên ít bị nô dịch hơn.)

Nội hàm

Việc xây dựng Đình Làng để bảo tồn văn hóa Việt trên quê hương mới

Để giữ gin di sản văn hóa Việt trên quê hương mới cộng đồng người Việt cần xây dựng ngôi Đình. Không có ngôi đình thờ cúng tiền nhân cộng đồng sẽ dần tan dã băng hoại! Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc hơn bốn ngàn năm Việt Nam nhiều phen mất nước nhưng không mất làng. vì thế lấy lại được nước. Làng Việt được gắn kết với một nơi thờ phụng linh thiêng vừa gần gũi đó là Đình làng. Cây đa, giếng nước mái Đình là một trong những thành tố làm nên văn hóa Việt.

Đình còn là một dấu ấn vàng son của mỹ thuật truyền thống dân tộc. Từ đó đã phản ánh biết bao vấn đề thuộc lịch sử, văn hóa, những tập tục, mối ứng xử đa chiều đối với vũ trụ và thế giới nhân sinh. Từ đình mọi luật lệ được tỏa về các con dân của làng xã, mà hạt nhân tâm linh chính là các vị anh hùng dân tộc – ông vua tinh thần của quần chúng là Thành Hoàng của làng.

Đồng thời là nơi lưu giữ các giá trị văn hóa truyền thống, nơi các hoạt động văn hóa cộng đồng được tổ chức và cũng là nơi tạo nguồn cảm hứng cho người dân sáng tạo nên các giá trị văn hóa. Không gian văn hóa đình làng Bắc bộ xưa do cộng đồng làng xã tạo dựng nên, xuất phát từ nhu cầu, niềm tin và ước vọng của người Việt. Với ý nghĩa đó, đình làng là trung tâm văn hóa, là bảo tồn nếp sống về văn hóa làng của người Việt Nam, là kho báu hết sức phong phú đặc biệt là điêu khắc Việt Nam trong lịch sử. Điêu khắc cũng tồn tại ở chùa, đền, các kiến trúc tôn giáo khác, nhưng không ở đâu nó được biểu hiện hết mình như ở Đình. Điêu khắc ở đình làng không những là nguồn tài liệu để nghiên cứu lịch sử Mỹ thuật Việt Nam, mà còn là nguồn tài liệu để nghiên cứu đời sống ngày thường cũng như tâm hồn của người nông dân Việt Nam.

Về sinh hoạt, biểu tượng đặm nét nhất lễ hội thường được tổ chức vào ngày sinh hoặc ngày mất của thần được thờ. Lễ hội gắn với truyền thống lịch sử (sự tích thần đánh giặc, lập làng, dạy nghề), gắn với lễ nghi nông nghiệp (lễ rước nước). Tế thần là hoạt động diễn lễ của hội tế để biểu thị lòng biết ơn của dân làng đối với thần, mong thần tiếp tục phù hộ cho đân làng mạnh khỏe, được mùa. Lễ vật tế thần là cỗ tam sinh (trâu, bò, dê hoặc lợn) là những sản phẩm nông nghiệp, là lễ vật kỷ niệm. Ví dụ đình Lưu Kiếm – Thủy Nguyên – Hải Phòng, xưa Trần Hưng Đạo qua đó chuẩn bị trận Bạch Đằng, dân làng chỉ kịp dâng cỗ “quá lộ” có cơm và cá, sau này khi tế thần ở đình cũng có lễ vật “quá lộ”. Đình làng Hương Trầm có bánh chưng, bánh giày cúng Lang Liêu. Nhân dân thường hem kiệu Ngọc Lộ hoặc kiệu Bát Cống trong lễ rước thần. Đặc biệt thường có con ngựa gỗ đi theo kiệu thần. Con ngựa gắn liền với cuộc sống đời xưa trong chinh chiến, đi lại và đã đi vào hoạt động tâm linh.

Hội đình mang lại niềm vui cho mọi người, mang tiết lễ. Trong hội diễn lại nhiều trò như giết giải cứu công chúa, hoặc gần với sự tích, gần với nông nghiệp (Vua Hùng đi săn), các tiết mục văn nghệ, trò chơi dân gian: đu quay, đánh vật…Đình làng là một kiến trúc to lớn nhất làng, nơi dung hội giữa đạo và đời, để con người tiếp cận với đấng thiêng liêng, song không bị đánh mất mình như ở một số tôn giáo và tín ngưỡng khác. Nó không phải là kiến trúc của Nho, Phật, lão, hay bất kể một tôn giáo nào đã từng tồn tại trên đất Việt, nó chỉ là nó, một sản phẩm độc đáo, không có bất cứ đâu.

Hình ảnh cái Đình đã in sâu trong tâm khảm người nông dân Việt, luôn luôn được nhắc nhở đến. Các nhà văn hóa Pháp trước đây đã sớm nhận thấy, như P.Giran viết: “Cái Đình là nơi thờ thần bảo hộ mỗi làng, chính là trung tâm đời sống công cộng của đoàn thể; chính ở đấy có những hội đồng kỳ mục, chính ở tại đấy họ giải quyết các vấn đề hành chính và tư pháp nội bộ; chính ở tại đấy có những cuộc tế lễ, tóm lại tất cả hành vi sinh hoạt xã hội Việt Nam đều diễn ra ở đây.

“Thần bảo hộ hay Thành hoàng đại biểu linh động tổng số những kỷ niệm chung, những nguyện vọng chung. Ngài hiện thân cho tục lệ, luân lý và đồng thời sự thưởng phạt trừng giới; chính Ngài thưởng phạt khi nào dân làng có người phạm lệ hay tôn trong lệ làng. Sau cùng Ngài còn là hiện thân đại diện cho cái quyền tối cao bắt nguồn và lấy hiệu lực ở chính xã hội nhân quần. Hơn nữa Ngài còn là môi giới của tất cả phần tử của đoàn thể, Ngài kết thành khối, như là một thứ nhân cách tinh thần mà tất cả thuộc tính cốt yếu đều có thấy ở mỗi cá nhân” (P.Giran, Magie et religions Annamites, 1918 trang 334-335). Và J.Y.Claeys cũng viết: “Chắc hẳn qua cái Đình người ta có thể nghiên cứu chắc chắn hơn cả về những tập tục nhiều khi rất phức tạp, thường là cảm động; luôn luôn mới lạ, biểu lộ đặc trưng đời sống tinh thần của xã thôn Việt Nam”.

(J.Y.Claeys, Introduction à létude lAnnam et du Champa, Hanoi 1934)

Nhìn chung, văn hoá đình Việt Nam có tính hoàn toàn độc lập của một cộng đồng xã hội biết tổng hợp dung hòa mọi nền văn hóa khác thành một nét văn hóa riêng cho dân tộc mình, trong ấy, yếu tố chủ yếu vẫn là thờ cúng những người có công với xã hội, người anh hùng dựng lập nước và bảo vệ đất nước.

Ở miến Bắc thời Cải Cách Ruộng Đất, ĐC SVN dưới chỉ đạo của cố vấn Trung cộng đình làng gần như bị xóa sổ! Chúng đập phá đình chùa, miếu mạo và các văn chỉ, được thực hiện trong một kế hoạch quy mô có tính toán trên cả nước, gồm cả mở những chiến dịch đào mồ mả tổ tiên trong đó có nhiều vị anh hùng dân tộc.

Tới thời kỳ “mở cửa”,(1) trong bài ký sự “Tiếng kêu cứu một vùng văn hóa”, Ông Võ Văn Trực, một đảng viên kỳ cựu, đã mô tả nỗi kinh hãi, đau xé ruột gan khi thấy những di tích văn hóa như đình chùa miếu mạo, các nhà thờ họ ở khắp quê ông bị đập phá, cùng với những chiến dịch đào bới mồ mả tổ tiên, do đám thanh niên mới lớn lên trong thời kỳ Cải Cách Ruộng Đất, vào thời kỳ chúng sửa soạn bước vào thế giới thù nghịch, ngay chính đối với ông cha mình! Về việc phá hoại các đình chùa, một chuyên gia Ba Lan đã phát biểu: “Hiếm có một đất nước như Việt Nam, làng nào cũng có đình chùa, miếu mạo, là một mặt biểu hiện của nền văn hiến dân tộc. Lạ thay, Nền văn hiến ấy đang bị hủy hoại[1].” Cũng là Cộng Sản, nhưng người Cộng Sản Ba Lan không u tối cuồng tín như Hồ Chí Minh và đám lãnh đạo Đảng Cộng Sản VN. Sự đập phá ấy diễn ra từ trong lòng thủ đô Hà Nội, nơi Hồ Chí Minh và những người lãnh đạo Đảng đang sống. Nó lan ra toàn quốc, ở Nghệ An, thời kỳ “cởi trói” cho văn nghệ sĩ năm 1987, một cán bộ văn hóa của tỉnh nói mỉa mai rằng: “Về cơ bản, tỉnh nhà đã phá xong những di tích lịch sử[2]”. Đó là lời nói của một cán bộ Cộng Sản làm công tác văn hóa.

Trước năm 1945 ở Miền Bắc, làng nào cũng có đình chùa, miếu mạo. Sau 1945, dù trải qua chiến tranh, hàng vạn ngôi chùa, Đình Làng với di sản vô giá, bị đập phá tan tành, nhiều pho tượng hay đồ tế lễ, văn tự trong Đình Làng được lưu truyền từ thời nhà Lý, nhà Trần, nhà Lê và Nguyễn vẫn còn nguyên vẹn. Trong thời gian Cải Cách Ruộng Đất, đình chùa, miếu mạo và các cổ vật ấy bị phá sạch vì đó là tàn dư của phong kiến.

Sau khi Liên Xô và khối các nước cộng sản Đông Âu sụp đổ nhà cầm quyền cho phục hồi nhưng rất nham nhở…Mặc dù họ nhận được nhiếu khoản viện trợ quốc tế như (năm 1993) đến nay, các Chính phủ và tổ chức phi chính phủ nước ngoài đã tài trợ cho Trung tâm bảo tồn Di tích cố đô Huế gần 8 triệu USD để trùng tu hệ thống Di tích cố đô Huế.

Gần đây, Quỹ hỗ trợ quốc tế của UNESCO tài trợ chương trình "Nâng cao năng lực quản lý khu di sản Huế" giai đoạn 2014-2015 với tổng số tiền 29.930 USD; Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (Quỹ Đại sứ về Bảo tồn văn hóa Hoa Kỳ-AFCP), thông qua Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Thành phố Hồ Chí Minh tài trợ 2 dự án "Bảo tồn phục chế các án thờ ở Triệu Tổ Miếu-Đại Nội, Huế" giai đoạn 2013-2014; và dự án "Bảo tồn, tu bổ di tích Triệu Tổ Miếu (phần Tiền điện) tại Khu Di sản thế giới Hoàng thành Huế với tổng số tiền gần 730.000 USD.

Những khoản tiền viện trợ khổng lồ này một phần không nhỏ vào túi cán bộ.

Trở lại chuyện Đình Làng.

Ai cũng biết Đình Làng là nơi cất giữ gần như toàn bộ gia sản văn hóa của Tổ Tiên, đồng thời là nguồn sử liệu vô giá.

Do đó, Đình Làng đã được các học giả, sử gia, nhà nghiên cứu xã hội nhìn nhận tính chất đặc biệt đa dụng cả về tôn giáo lẫn xã hội, luật pháp, tư pháp, lập pháp, du hí, kinh tế, quan hôn, tang lễ v.v… Chỉ Việt Nam mới có.

Sau sự biến cố 1975, thì hàng triệu người phải từ bỏ quê hương, với mái chùa, sân đình, người thân, xóm làng thân thương, để tìm đến một phương trời mới, có được sự sống tự do, dù nơi đó không phải là nơi chôn rau cắt rốn của mình. Trong đó, có quí Thầy, quí Cô cũng như quí vị chức sắc tín hữu các tôn giáo, quí nhân sĩ trí thức các giới.v.v…Đă xây dựng đươc hàng trăm ngôi chùa ở hải ngoại, nhưng chưa ai tính chuyện xây dựng một ngôi Đình dù đã trải qua thời gian 50 năm.

Ở Việt Nam đã có chùa là phải có đinh { Đình-Chùa}

Từ xưa đến nay, người dân Việt Nam vẫn thường gọi chung đình chùa, nhưng trên thực tế, đình và chùa không cùng một ý thức văn hóa. Chùa là nơi chỉ thờ Phật và các vị Bồ Tát, ít nhiều có ảnh hưởng văn hóa Phật giáo đến từ Ấn Độ, Trung Hoa. Còn đình là của cộng đồng làng xã Việt Nam. Đình có thể thờ tất các vị anh hùng dân tộc, còn nhà thờ và chùa chỉ thờ Chúa và Phật, nhà thờ cũng như chùa khép cửa với dân ngoại đạo, còn Đình mở cửa cho tất cả tôn giáo, Đinh mở cửa cho mọi thành phần dân tộc. Đình là biểu hiện sinh hoạt của người Việt Nam, nơi “cân bằng” phép tắc của cuộc sống cộng đồng, nơi khai diễn những nét tài năng, tư duy của dân làng, nhất là về tín ngưỡng, nơi để thờ thần Thành Hoàng làng, người có công với dân, cứu nước, giữ nước hoặc giúp dân nghề nghiệp sinh sống.

Nhìn quanh đình làng, ta sẽ thấy lòng tri ân, trọng nghĩa, trọng tài, ”uống nước nhớ nguồn” của người Việt Nam. Tuy đình là của dân làng, nhưng thần không hẳn là người của làng. Hơn nữa, người Việt Nam thừa hưởng nhiều tín ngưỡng cổ sơ, nguyên thủy, nên thờ và tôn kính rất nhiều vị thần như: thần núi, thần biển, thần nước (thần Tản Viên)… ở Phù Ninh (Phú Thọ) thờ thần Đá Trắng, vùng đồng bằng thờ thần cá, thần rắn… Tất cả những tín ngưỡng ấy, các thế hệ dân Việt Nam tiếp nối nhau tạo thành một nền vǎn hoá đình, một nền vǎn hóa hỗn hợp, đa dạng, có mặt nhiều thành phần tôn giáo khiến cho đình trở thành một tập thể siêu thần, thành một sức mạnh vô hình, tạo một niềm tin, một niềm hy vọng, một sức mạnh vô hình của làng xã cộng đồng Việt Nam.

Trong cái đình ấy, tất cả sinh hoạt tinh thần và vật chất công cộng đều tập trung chung quanh cái “nhà chung” gọi là Đình làng, dù phe phái nào, dù là kình chống nhau thì những ngày lễ hội họ cũng đến lễ vị thần bảo hộ làng, như nhà văn hóa Pháp P.Giran đã viết: “Hơn nữa Ngài còn là môi giới của tất cả phần tử của đoàn thể, Ngài kết thành khối, như là một thứ nhân cách tinh thần mà tất cả thuộc tính cốt yếu đều có thấy ở mỗi cá nhân.”

Trong bối cảnh hiện nay. Đối với cộng đồng người Việt ở hải ngoại phương hướng giữ gìn văn hóa không gì bằng ngôi đình. Nó là chất keo gắn bó cộng đồng là nơi thờ phụng Quốc Tổ và các vị anh hùng dân tộc. Nơi tổ chức các ngày lễ hội…( không phải thuê chỗ) Nơi sinh hoạt văn hóa đa chiều: Tổ chức hội thảo, trình diễn văn nghệ, ra mắt sách vv…

Nếu mọi người dân cùng chung tay góp sức tham gia trực tiếp vào công tác xây dựng ngôi đình, đóng góp mỗi người một viên gạch, thì di sản lịch sử vân hóa mới thực sự sống trong lòng cộng đồng người Việt trên quê hương mới trong sự biến đổi của nó qua lịch sử, đặc biệt là sự biến đổi trong thời kỳ văn hóa và hội nhập trong Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. khi nền kinh tế toàn cầu diễn ra, ở mỗi đất nước, tuy mức sống khác nhau, nhưng hình ảnh thế giới mọi nơi đều đang biến đổi theo một xu hướng chung. Và điều làm nên sự khác biệt đó là những di sản văn hóa mà ẩn chứa trong đó là tinh thần dân tộc, bản lĩnh dân tộc. Và các thế hệ trẻ sẽ am hiểu và yêu mến di sản mà cha ông đã để lại, qua đó có ý thức chung tay giữ gìn và phát huy những giá trị di sản này nhiều hơn nữa. Di sản lúc đó mới thực sự song hành cùng đời sống của cộng đồng người Việt ở hải ngoại.

Ý nguyện của tác giá quá lớn chăng?

Không. Đã có hàng trăm ngôi chùa được xây dựng bởi lòng haỏ tâm của Phật tử bằng tài thao lược của các sư ông, có vị có hai chùa, mỗi chùa có giá vài triệu Mỹ Kim. Vậy hàng trăm ngàn người hào tâm đó lẽ nào làm ngơ trước cảnh Tổ tiên và các vị anh hung dân tộc, như Bà Trưng, bà Triệu…của họ không có nơi hương khói!!!

“uống nước nhớ nguồn” Các vị uống nước nguồn nào?

Quốc Tổ Hùng Vương, Đức Phật, Chúa Je Su?

Sự thật ở nhiều tiểu bang Hoa Kỳ có người Việt sinh sống đông đúc, tôi cũng chỉ thấy họ xây chùa để thờ Phật, xây nhà thờ để thờ Chúa. Cả hai nơi này đều không có chỗ trú cho Quốc Tổ Hùng Vương và các vị anh hùng dân tộc của họ! Thành ra các Ngài vẫn trong cảnh không nơi hương khói! Khi hậu duệ của các Ngài nhiều người sống trong những biệt thự sang trọng và nhà nào cũng có bàn thờ Phật, thờ Chúa.. Ở đây, Quốc Tổ bị loại ra một cách tự nhiên, phải chăng vì Ngài không thiêng?

Bi kịch văn hóa là tiếng khóc của con người khi đối mặt với sự thật!

Bi kịch Quốc Tổ Hùng Vương và các vị anh hùng dân tộc không nơi phụng thờ hương khói hầu nhu ở các tiểu bang có người việt sinh sống đông đúc… Ngay ở San Jose, nhiều vị anh hùng dân tộc cùng với đồ tế lễ bị nhét trong kho chứa đồ, Đức Trần Hưng Đạo Tạm trú trong Gara Ôtô – nhà Phật tử Nguyễn Hữu Lục, từ khi ông Lục qua đời Ngài không con nơi hương khói nữa! Tượng Đức Bình Định Vương Lê Lợi.cũng trong cảnh màn trời gió bụi!

Tôi xin lỗi vì đã như thế này trước quý vị và các bạn, tôi cũng muốn nói rằng:

Hầu hết người dân Mỹ gốc Việt đều không hình dung rằng có ngày họ sẽ không còn thấy những ngày kỷ niệm các vị anh hùng dân tộc nữa! Bởi mối lo của các vị hoạt động cộng đồng và các chính trị gia, đảng phái là những vấn đề lý tưởng cao xa có Sức hút trước mắt cùng với những ồn ào chống cộng …Dĩ nhiên là quan trọng và phải đạo, nhưng bảo tồn văn hóa cô kết cộng đồng về một mối cũng không kém phần quan trọng.

Thử hỏi vận mệnh văn hóa đạt vào tay ai? Nếu không đặt lợi ích lịch sử văn hóa lên trên hết, thì trước sau các danh xưng ấy cũng sẽ bị mờ nhạt dần và rồi nó sẽ mất đi, khi đã mất đi rồi thì đảng phái và các hội đoàn đến cả chùa chiền sẽ khó mà có thể còn ở chỗ đấy!

Không bao lâu nữa đâu, tất cả sẽ biến đi! Có đáng sợ không?

Như là nói đến nỗi sợ hay không, nỗi sợ hay không sợ, thì bây giờ chúng ta phải đặt vấn đề “bản chất” nó như vậy, và các vị phải đối mặt với sự thật…

Các quý vị nghĩ sao?

Theo tôi nghĩ, đã đến lúc cần có một lộ trình rõ ràng cho việc xây dựng một ngôi Đình Làng San Jose, để gìn giữ văn hóa Đình làng ở đây không chỉ mang giá trị tâm linh, tín ngưỡng mà còn mang giá trị văn hóa cao. Thể hiện bản sắc riêng của đất Việt. Một trong những việc cần làm để bảo tồn truyền thống văn hóa Việt đó chính Đình là cái sẽ còn lại khi tất cả những cái khác bị quên đi, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả bài học lịch sử.

Sau chót, nhân dịp đầu năm 2016, cầu Quốc Tổ độ cho quý vị bình tâm.

Trân trọng

TN

Ý kiến bạn đọc
12/01/201611:07:58
Khách
Toi tran quy VAN HOA DAN TOC. Toi tran quy anh TRAN NHU. Nhung anh Nhu a. Viec nay ma tien hanh thi bon tho lay NGOAI TOC se chang de cho chung ta yen dau. Vi chung luon NO DICH bon ngoai lai. Van hoa ngoai lai, luc nao cung muon tieu diet Van Hoa Dan Toc minh de phat trien cai thu Van Hoa Ngoai Lai ca. Ma bon TAY SAI - PHAN TOC nay tai Hai Ngoai qua dong dao va tan doc. Bon chung se chang de cho chung ta yen dau.
Anh thu nghi xem da 40 nam roi, ma chung ta co the tim thay cai HON cua Van Hoa Dan Toc trong cac sinh hoat cong dong hay khong? Trong nuoc thi bon QUY DO, ngoai nuoc thi bon NGOAI LAI khong che het.
Nay kinh
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.