Hôm nay,  

Áo Mới Ăn Tết

06/02/201600:00:00(Xem: 5432)
Cứ vào những tháng cuối năm, trẻ con mong đợi mau tới Tết để được nhiều thứ mà ngày thường không có trong đó có quần áo mới. Mà chính nhờ vậy mà ngày Tết khoát lên mình một màu sắc mới đặc sắc hơn ngày thường.

Điều này, ở nhà quê, nhứt là ngày xưa, nổi bât hơn ở thành phố lớn.

Mà sắm quần áo mới, không riêng gì trẻ con, mà cả người lớn nữa. Nhưng ở các xứ Âu Mỹ, người Việt nam sắm Tết cho gia đình vào dịp Noel và Tết dương lịch nên qua Tết Việt nam, họ bình thảng hơn. Chỉ lo đi chợ làm mâm cổ cúng Ông Bà vào 3 Ngày Tết.

Nhắc lại ngày Tết mua sắm quần áo mới, nhơn đây, tưởng cũng nên nhắc lại một thứ áo mà ngày nay đang chiếm thị trường, chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong các tủ kiếng của những cửa hàng lớn, chi phối tâm trí, sự chọn lựa của nữ giới, với giá cả có khi vô cùng mắc, mắc hơn cả nhiều bộ y phục lớn, tuy vật liệu chỉ nắm gọn trong lòng bàn tay. Còn một điều nữa, thân chủ của nó lại ít ai biết về nó một cách rỏ ràng, như những đặc tính của nó, sự lợi hại của nó cho người mặc, …mà chỉ biết theo sở thích, giá cả và sau cùng chỉ nhớ tên tuổi của nó mà thôi.

Đó là áo nịch- ngực của các bà, các cô!

Có đúng như vậy không?

Với những tên gọi…

Tên gọi Việt Nam rất đơn giản: “áo nịch-ngực”! Nếu có ai bảo gọi như vậy “không chính xác”, cũng không sao. Không chết thằng Tây, con Đầm nào. Bỡi không phải đó là sản phẩm do Ông Bà của người người Vìệt nam chế tạo ra. Của Tây mà!

Người Việt nam xài, thấy thích và các bà, các cô đều đua nhau xài. Thấy nó như một phần của da thịt mình nên không ai còn thắc mắc tên gọi của nó. Trước kia, ngưòi ta gọi “sú-chen”, “cọt-xê” theo cách phiên âm pháp-việt. Mà chỉ có các bà, các cô tân thời xài, chớ các bà già trầu đâu bao giờ rớ tới nên không thèm lý giải tới tên gọi món phụ tùng này.

Thật ra, chiếc áo “nịch-ngực” có nhiều tên gọi khác nhau theo thời gian và quá trình cải tiến y phục phụ nữ.

Căn cứ theo vai trò của nó là bảo vệ vùng ngực của phụ nữ mà có nhiều tên gọi được đề nghị. Như “apodesme”, “strophium”, “mastodeton”, “sangles”, “mamillar”, “brassière”, “bandeaux”, “corsets” và “corsellets”,…

Những tên gọi khác nhau này xuất hiện theo từng thời kỳ mà thứ phụ tùng này có nhiệm vụ phục vụ. Khi phải ôm theo vóc dáng, khi phải làm cho bộ ngực đẩy đà, lúc phải tạo sự dễ dàng cho những động tác vai khi tập thể dục, nhưng cũng phải nghĩ tới những thuận lợi lúc ái ân hoặc bảo vệ nhơn phẩm phụ nữ, …

Nhưng quan trọng hàng đầu là phải giử sự thoải mái cho người mặc ngoài vai trò, trong quan hệ giữa y phục và cơ thể, biến cơ thể tự nhiên thành cơ thể “văn hóa” phản ánh nét “văn minh phụ nữ” thời đại!

Một chút về từ nguyên và lịch sử

Thứ phụ tùng này của phụ nữ đã xuất hiện từ xa xưa nên, cũng như nhiều thứ khác có tuổi thọ cao, có lịch sử của nó.

Cứ theo từ điển lịch sử tiếng pháp của Alain Rey, ấn phẩm xuất bản năm 1999, thì tên gọi sơ khởi chiếc “áo nịch-ngực” năm 1899 được đổi lại vào năm 1904 là “maintien-gorge”. Từ ngữ “gorge” (cổ họng), dùng một cách văn chương, tế nhị, chỉ bộ ngực phụ nữ. Từ “brassière” biến thành “bra” hảy còn dùng ở Huê kỳ cho tới giữa năm 1930 và 1935.

Vào thời Thái cổ và qua Trung cổ, phụ nữ hi-lạp mặc chiếc áo dài bằng vãi gai nhiều lớp để che dấu bớt nhơn dạng phụ nữ. Để làm giảm bớt đường nét phụ nữ, người ta làm cho bộ ngực và bộ mông lép xuống, người phụ nữ mặc áo apodesme, một loại áo như dây nịch quấn ngang dưới ngực. Apodesme mặc hai cách: hoặc mặc ngoài áo dài, hoặc mặc thẳng vào người dưới lớp áo dài.

Các cô gái mặc thứ áo mastodeton là một cái băng vãi mỏng quấn ngang ngực để ngăn bộ ngực nẩy nở làm cho ai cũng trông thấy dễ dàng, biến người con gái trở thành một dạng “lại đực” (nửa nam, nửa nữ) và đó chính là thị hiếu về vẻ đẹp phụ nữ của người hi-lạp xưa. Nhiều cô gái có bộ ngực phát triển quá đà, các y sĩ giải phẩu đề nghị cắt bỏ bớt vài kí-lô mở để giảm bớt bề thế vĩ đại của bộ ngực.

Cùng thời, phụ nữ la-mã cũng mặc áo dài, và dưới áo dài, cũng lớp áo lót như phụ nữ hi-lạp. Cặp mông được bó gọn trong lớp y phục có tên là taenia hay fascia, cùng công dụng như mastodeton. Ai có thân mình phát triển vượt mức sẽ được siết chặt trong lớp mamilliaire bằng da.

Lúc bấy giờ, đồ lót phụ nữ la-mã giống như bikini hoặc bộ quần cụt với áo nịch-ngực dính liền của ngày nay.

Năm 2008, một ê-kiếp nhà khảo cổ học người Áo khai quật được nhiều đồ lót phụ nữ của thế kỷ XIV và đầu XV. Trong số đó, có những thứ kiểu cách hoàn toàn giống như y phục phụ nữ đang lưu hành ngày nay.

Áo nịch-ngực phụ nữ lần đầu tiên được đem tham dự triển lãm toàn cầu ở Paris năm 1889 dưới tên gọi “Bien-être” (Thoải-mái) mà ngày nay là “soutien-gorge”. Đó là chiếc áo ngực cắt đôi làm hai vòng quấn ngang ngực, khá dễ chịu cho người mặc. Nhưng dần dần, nó được cải tiến. Cho đến cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, nó khá hoàn chỉnh, đạt được tiêu chuẩn tiện nghi và vệ sinh. Qua năm 1913, áo nịch-ngực được sửa lại thành hai mảnh tách bạch, mỗi mảnh giống như cái túi ôm riêng từng cái vú, với dây mang vào ngực.

Nhưng trước đó, khi nhìn thấy chiếc áo nịch-ngực phụ nữ, nhà văn và tư tưởng Jean-Jacques Rousseau không chịu nổi vì cảm thương người phụ nữ nên đã phê phán “…nó cắt thân thể người phụ nữ làm đôi chẳng khác gì con ông vò vẻ”.

Áo nịch-ngực phụ nữ phát triển, chiếm thị trường chỉ từ năm 1920. Thật vậy vì quan niệm về cái đẹp ở thân thể người phụ nữ đã thay đổi. Người ta lấy chử S làm mẫu mực. Ngực phụ nữ phải nhô ra phía trước, đùi và mông phải đẩy ra phía sau. Nét thẩm mỹ này chấm dứt quan niệm ngực và mông phụ nũ phải giử cho khiêm tốn tối đa nên từ đây áo nịch-ngực may bằng lụa, bằng musseline hoặc batiste, tức các loại hàng mỏng và mềm mại.

Qua năm 1930, áo nịch ngực bắt đầu xuất hiện với khối lượng lớn tạo thành qưầy hàng riêng cho trang phục phụ nữ nhưng giá hảy còn đắc và kén vóc dáng người mặc.

Bước tiến dài đưa áo nịch-ngực tới với đông đảo các bà các cô do ba anh em nhà Warner ở Huê kỳ thực hiện bằng loại hàng co giản, áp sát vào ngực người mặc, thay thế dây mang trước giờ là vải nay bằng thứ co giản nữa.

Sau Đệ II Thế chiến, thêm bước tiến nữa. Áo may bằng nylon với hai cái “gối” độn vào làm cho bộ ngực được nâng cao lên. Năm 1943, Howard Hugues sáng tạo ra kiểu áo không cần dây mang vào vai mà vẫn bám chắc vào ngực và đưa bộ ngực nhô thẳng ra trước nhọn hoắc. Tới những năm 1960, nhà Playtex tung ra thị trường loại áo ngực đầu tiên không sườn sắt.

Năm 1970, cuộc cách mạng tình dục đánh dấu thêm một khúc quanh mới cho quá trình cải tiến chiếc áo nịch-ngực. Người ta đem chiếc áo nịch-ngực đốt nơi công cộng và đới hỏi nó phải linh động, tiện nghi và không hàm ý về gợi dục.

Ngày nay nhờ những tiến bộ khoa học kỷ thuật về vải sợi, chiếc áo nịch-ngực được thực hiện với sự kết hợp hai đặc tính: tính linh động và tính hấp dẩn.

Không biết nên gọi bằng tiếng việt “Soutien-gorge” là áo “Nịch-ngực” hay áo “Nâng-ngực” cho đúng?

Trong tiếng pháp, chữ “soutien” có nghĩa là “nâng” và chữ “gorge” có nghĩa văn chương là cái “vú”!

Phụ nữ nên được giải phóng

Đúng vậy! Nhưng hoàn toàn không mang ý nghĩa của cộng sản như “Phụ nữ Giải phóng”, “Hội Phụ nữ Giải phóng”, …

Những người phụ nữ đòi “Gìải phóng” nói rỏ hơn khi đưa ra yêu sách, đó không phải là nhằm giải phóng thân phận hay địa vị xã hội của người phụ nữ, mà là “Giải phóng bộ ngực” phụ nữ. Chính xác hơn: “Giải phóng cặp vù phụ nữ”. Trong ý nghĩa vừa xã hội, vừa y học.

Một số các bà, các cô cho rằng mang áo nịch-ngực thấy không thoải mái chút nào mà còn vô ích nếu muốn giử cho bộ ngực không chảy xệ. Một cuộc xét nghiệm khoa học trên 330 phụ nữ ở Đại học Besançon (Pháp) do Gìáo sư Jean-Denis Rouillon và các cộng sự viên của ông theo đuổi suốt 15 năm dài, công bố kết quả, xác nhận sự ích lợi ở việc không mặc áo nịch-ngực: hai cái vú tự nâng cao lên 7mm/năm và thêm rắn chắc hơn, những đường nứt hay gân xanh cũng từ từ biến mất, không bị đau lưng,...

Ông giải thích tiếp “Với sự hỗ trợ của áo nịch-ngực, phần cơ nâng đỡ vòng 1 sẽ không phải hoạt động nhiều và nhanh chóng bị thoái hóa”.

Một số phụ nữ tham gia nghiên cứu tại trường Đại học Besançon cho biết việc ngưng sử dụng áo nịch-ngực giúp họ giảm chứng đau lưng.

Riêng phụ nữ tranh đấu nữ quyền hô hào không nên mặc áo nịch-ngực vì nó là dụng cụ kìm kẹp và gây đau đớn cho thân thể người phụ nữ. Họ đòi đi dạo để ngực trần. Tại sao đàn ông để ngực trần được? Những nguời yêu sách điều này đang trở thành phong trào toàn cầu; Nam-Bắc Mỹ, Âu châu và Á châu. Đó là không tính tới tổ chức Femen ở Âu châu, tròi lạnh mùa đông, vẫn thản nhiên thoát y tranh đấu bảo vệ nữ quyền cho phụ nữ Hồi giáo, chống lại trùm khăn.

Ngoài ra, một số tổ chức tôn giáo và chánh trị cũng ngăn cấm mặc áo nịch-ngực. Năm 2009, ở Somalie, lực lượng võ trang Hồi giáo Shebab đánh bằng roi nơi công cộng những phụ nữ mặc áo nịch-ngực.

Nhưng nếu có cái áo nịch-ngực thật sự thông minh, biết rỏ ý của chủ nhơn muốn gì thì có nên mặc không?

Nhà Ravijour của Nhựt bổn vừa đưa ra thị trường chiếc “Áo Ngực thử thách tình yêu”. Tên gọi như vậy vì áo tự cởi chỉ khi người mặc muốn “yêu”. Người khác muốn “yêu” người mặc áo mà chủ nhơn chiếc áo không đồng ý thì áo bảo vệ bộ ngực chủ nhơn tới cùng. Mọi làm ẩu đều thất bại.

Ravijour cho biết hãng đã hợp tác với các chuyên gia hàng đầu của Nhựt để tạo ra "True Love Tester" - Đại diện nhà Ravijour giải thích "Đây là một loại áo ngực mang tính cách mạng dành cho phụ nữ, tôn vinh cảm xúc của họ".

Cơ chế hoạt động của chiếc áo không quá phức tạp: một thiết bị đặc biệt đi kèm (giống như vòng đeo tay thông minh của Fitbit) sẽ đo nhịp tim của người mặc. Dữ liệu về nhịp tim sẽ được truyền liên tục qua đường Bluetooth tới một chiếc điện thoại di động. Thiết bị này sau đó sẽ phân tích, xử lý dữ liệu bằng một ứng dụng đặc biệt, dựa trên tin học để đoán định cảm xúc người mặc. Nếu người mặc thật sự “phải lòng” đối tượng thì ứng dụng sẽ ra lệnh từ xa cho chiếc áo tự động cởi ra để đón nhận sự “yêu đương”.

Một món quà tuyệt vời cho dịp Tết này hay vào dịp Lễ Tình yêu sắp tới?

Nguyễn thị Cỏ May

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.