Hôm nay,  

Kỷ Niệm

12/05/201612:09:00(Xem: 8988)

Kỷ Niệm

Để tiếc thương Cao Thị Minh Nghĩa, người em gái duy nhất của tôi.

 
blank

Cao Đắc Vinh

 

Tôi sinh ra trong một gia đình đông con, theo thứ tự là người con thứ tư trong số bảy anh chị em. Sau tôi ba năm là cô em gái nên chúng tôi lớn lên cùng thời... Năm tháng cũ bên nhau, hai đứa sống chung nhiều kỷ niệm đáng nhớ trong đời.
.

Vì ở giữa hai thanh nữ, trên có chị, dưới có em do đó đời sống tình cảm của tôi rất phong phú từ thời niên thiếu đến tuổi trưởng thành. Mẹ tôi cứ ba năm hạ sanh một đứa vì thế bà chị hơn tôi ba tuổi, cô em cũng lại kém từng đó năm. Ảnh hưởng của chị lớn đối với em trai thường khiêm nhường hơn em gái nên tuổi tác sai biệt của em và tôi là động lực môi giới lý tưởng cho những mối tình chớm nở từ hai phía.
.

Thời gian tôi vào Trung học Nguyễn Trãi, Chu Văn An thì em là nữ sinh Trưng Vương vì vậy ở tuổi dậy thì, mối tình lãng mạn giữa tôi với một người bạn của em nảy nở như bông hoa tím học trò ép giữa trang sách. Trưởng thành lên Đại học là lúc tôi phải xa nhà, xa em và xa cả chuyện tình ngây thơ trong sáng ấy. Tuy xa nhau nửa vòng trái đất nhưng thư tình và thư em đến từ Saigon đã như nắng mùa đông Paris sưởi ấm lòng hoài hương... chờ đợi một ngày về! Dạo đó, hôm nào người đưa thư dừng trước nhà, nếu may mắn có thư “người ấy” hay thư em là tâm hồn tôi vui như mở hội nên dù bận rộn thi cử, tôi cũng gấp sách lại để mở lá thư xanh có mùi hương xưa, hoa lạ ấp ủ từ quê nhà.
.

Thư em viết chân tình giống như trò chuyện... chữ nghĩa bình dị kể lể đời sống gia đình, tin tức bạn bè ở trường rồi sinh hoạt của các cô cùng lối xóm thật vui nhộn đã là món quà tinh thần quý hiếm cho kẻ xa nhà. Biết anh trai thích nghe chuyện em gái nên mỗi dòng tâm sự của em đều đầy đủ tình tiết dí dỏm. Tôi say mê đọc đi đọc lại nhiều lần, có khi bật cười hay bật khóc bởi tin vui hoặc tin buồn em thông báo. Tuy thư viết có lúc ngắn lúc dài nhưng mười lần như một, khi đọc đến dòng cuối: “xin phép anh ngừng bút và hẹn ông anh yêu quý của em thư sau”, tôi lại thấy hụt hẫng, bàng hoàng trách em sao không viết dài hơn thế nữa!
.

Em chào đời sau thế chiến thứ II, khởi đi từ chinh chiến mùa thu, Việt Minh liên kết mọi thành phần chính trị để dành độc lập từ thực dân Pháp. Bố mẹ đắc chí đặt ngay hoài bão ấy vào tên em như muốn chuyển lời hiệu triệu của phong trào Việt Minh lên cao. Phải chăng là điềm gở vì phận gái giữa thời loạn, lại trót mang cái danh nghĩa chính trị bề ngoài lý tưởng mà bề trong giả dối nhằm thủ tiêu, giết hại thành phần Quốc gia chân chính nên đời em cũng thăng trầm như vận nước nổi trôi?
.

Sinh nhật em mùng 5 tháng 1, ngày cưới thứ bảy 1 tháng 5, 1976 và lạ lùng thay chủ nhật ngày 1 tháng 5, 2016 cũng là ngày em về nước Chúa... Ba thời điểm quan trọng của đời người bị đảo ngược vì trùng hợp! Lẽ ra tôi nên gọi là Chúa nhật cho linh thiêng tỷ như em đã hẹn về đúng “ngày của Chúa”! Em vừa nằm xuống sau hơn sáu thập niên đã đến cõi trần... tiếng khóc o eo chào đời hòa cùng tiếng súng Việt Minh khởi nghĩa lúc vận nước đang hồi ngả nghiêng. Giã từ “cõi tạm”, đời em tuy đã yên nghỉ nhưng vận nước vẫn còn đó nỗi buồn! Chết “linh” xin em hãy phù hộ nước Việt mình sống “hiển”, qua cơn bỉ cực một lần giống như em là điều 90 triệu đồng bào đang mong chờ.
.

Sáng nay nhìn trời đổ mưa, lòng tôi chùng xuống vì nhớ em nên muốn viết lại quãng đời “lịch sử” ví như duyên kiếp mà chính tôi là nhịp cầu đã dắt em qua... Kỷ niệm thuở ban đầu bao giờ cũng đẹp, sau tình yêu còn có tình anh em cùng chung bọc mẹ sinh ra... một thời gặp gỡ, yêu thương, giận hờn rồi vĩnh biệt.
.

Trong “Chuyện Kể Đôi Mắt Người Sơn Tây” viết tặng em, tôi đã trình bày cuộc đời hai đứa với nỗi nhọc nhằn ở quê Sơn Tây lúc còn tấm bé trong vòng tay che chở của mẹ khi lính Lê Dương về làng hãm hiếp: Tín lập gia đình với Cam, người cùng phố Hậu An và có được 5 người con. Đứa con gái út vừa ra đời vào dịp Tết Kỷ Sửu cách đây vài tháng, vợ chồng đặt tên là Minh Nghĩa để kỷ niệm ngày Việt Minh khởi nghĩa. Hôm nay, Cam cũng ngồi thổi cơm giúp mọi người mặc dù không ra đồng canh tác vì thể lực còn yếu sau khi sanh nở. Một tay ẵm đứa bé gái ghì sát vào ngực, một tay dắt thằng con trai tên Vinh vừa tròn ba tuổi, Cam đưa mắt nhìn chồng e ngại, cứ nhìn lên rồi lại cúi xuống xem chừng hai con nhỏ như đoán trước hiểm nguy sắp ập đến với gia đình mà tấm thân nhỏ bé của nàng đành an phận buông xuôi và cam chịu như tên gọi của mình..”

http://binhtrung.org/author/post/3752/1/cao-dac-vinh-vietbao-com
.

Năm 54, hiệp định Genève ký kết, gia đình di cư, tuổi thơ cùng lớn lên ở miền Nam. Em ngây thơ xinh đẹp nên mấy đứa bạn tôi hay lui tới nhà, có khi chỉ đậu xe trước cửa trò chuyện dăm ba câu rồi lại đi! Mục đích là thăm tôi nhưng thật ra cũng để nhìn trộm và tìm cơ hội quen em. Ngây ngô tôi chẳng để ý khi bạn mình hay đảo mắt nhìn vào phía trong nơi có em qua lại... Thế rồi mọi điều vỡ lẽ khi tôi đi du học vì em thấy các anh ấy vẫn thường trở lại, lấy cớ muốn biết tin tôi ở xa nhưng thực tâm là để thăm em ở gần. Về lâu về dài chẳng còn úp mở, thỉnh thoảng tôi nhận thư họ tâm sự... muốn yêu thương, chăm sóc em trong lúc tôi vắng nhà như một cô em gái “nuôi” dễ mến. Tuổi thiếu nữ trăng tròn mà mấy anh trai vồn vã tình nguyện dạy em học, dắt đi phố vào những dịp Saigon nhộn nhịp lễ Tết hẳn cũng làm em vui cho dù tình yêu thuở đó vẫn còn trừu tượng chưa định nghĩa.
.

Ai biết trước được dòng đời sẽ trôi về đâu? Vài năm sau, em lên đường sang Mỹ du học nên đành bỏ lại tất cả tình xưa nghĩa cũ. Từ Paris tôi sang New York gặp em năm 72, ngẫu nhiên được tham dự Đại hội Hè do sinh viên Việt Nam tổ chức vì em là một thành viên. Em bấy giờ khôn lớn, xinh tươi như đóa hoa xuân vừa nở nụ, tỏa hương thơm ngát làm đàn ong, cánh bướm dập dìu xung quanh không biết mỏi! Tôi hoa mắt, hãnh diện về cô em gái bao nhiêu thì yêu thương em bấy nhiêu...
.

Năm em ra trường, tôi nhận được lời nhắn: “Trước khi xin việc đi làm, anh cho em thăm nước Pháp rồi sau này chết cũng hả lòng! Từ lâu, em mơ đến Paris mà chỉ biết qua âm nhạc và sách vở... Tháp Eiffel, sông Seine với những cuộc tình em từng nghe nhưng chưa bao giờ thấy...”. Không chờ đợi, tôi mua ngay vé khứ hồi New York - Paris qua hãng Air France để em đi Pháp. Thời gian đó, tôi đang làm việc ở tỉnh nên đến Paris đón em tại phi trường Charles De Gaulle. Tôi nhớ mãi hôm ấy là 11 giờ sáng thứ bảy, ngồi uống cà phê tại một quán nhỏ có hai hàng ghế xếp dọc trên hè phố St Michel gần vườn Luxembourg để đợi giờ máy bay hạ cánh vào lúc xế trưa.
.

Người Paris có cái thú tiêu khiển là ngồi vỉa hè, uống tách cà phê expresso... để hồn bâng quơ nhìn khách bộ hành. Tôi lấy một bàn, thảnh thơi ngắm người đẹp qua lại với niềm vui sắp đón cô em gái đáng yêu. Bất ngờ, ngẫu nhiên chẳng hẹn mà gặp, tôi vừa thấy bóng dáng người bạn cũ cùng trường năm xưa ở Pháp bước ngang qua. Mừng quá tôi gọi với anh ta lại rồi hai đứa ngồi cà phê tâm tình cả giờ không hết chuyện... Được biết tôi sắp ra phi trường đón cô em gái, anh đề nghị lái xe cùng đi để tiếp tục hàn huyên vì lâu năm mất liên lạc và cuối tuần rảnh rỗi.


.

Phi trường Charles De Gaulle tấp nập với những chuyến bay quốc tế. Em tôi xong thủ tục, bước ra ngoài... Anh em ôm nhau mừng tủi rồi chuyện vui nổ ra như pháo nên quên bẵng giới thiệu với em người bạn đang đứng bên cạnh mỉm cười, mắt nhìn chăm chú, chờ đợi bắt tay chào hỏi làm quen.

Lấy hành lý xong, chúng tôi xuống chỗ đậu xe, bỗng nghe tiếng em vừa la hốt hoảng vừa hí hửng hét lên khi nhận ra chiếc mini Cady năm xưa đang đậu ở lề đường. Cử chỉ thơ ngây ấy đã làm tôi và anh bạn ngạc nhiên, thích chí bật cười... Đây là kỷ niệm ngộ nghĩnh nhất chúng tôi ghi nhận lúc em vừa đặt chân đến Paris. Lý do có thể hiểu vì xa nhà đã lâu, sống ở thành phố xô bồ như New York, chưa lần nào em gặp lại cái kỷ vật xa xưa ấy. Bất ngờ thấy chiếc Cady giữa Paris đã làm khung trời Trưng Vương thời nữ sinh của em trở về... màu áo trắng trinh nguyên, tình bạn bè thân thiết, có tiếng cười ròn tan và tuyệt vời có cả cái nét thơ ngây thuở nào.
.

Giây phút em bộc lộ kỷ niệm một cách tự nhiên qua chiếc Cady không ngờ đã chinh phục trái tim Don Juan của anh bạn tôi ngay tức thì... Cái cảm xúc tự phát ấy nghe kể thì rất thông thường nhưng thực tế hình như có “ma lực” chuyển được cả lòng người! Nhiều lần tôi tự hỏi khi nhớ đến kỷ niệm khó quên này: “đồng ý đời con gái huy hoàng nhất chỉ vỏn vẹn vài năm sau tuổi dậy thì và nhan sắc em tôi xem như tuyệt đỉnh ở thời điểm đó nhưng một người đàn ông đào hoa và từng trải như anh bạn tôi lại có thể yêu đột nhiên như sét đánh là điều dễ mà cũng khó hiểu?”.
.

Bạn tôi bề ngoài trẻ trung chẳng có gì đáng phê phán. Nhân cách anh là một “gentleman” lịch thiệp có duyên ngầm, tính tình hào phóng, con nhà giầu và nhất là học giỏi xuất thân từ một Grandes Ecoles ở Paris. Đi tìm câu trả lời, tôi chỉ có thể thầm nghĩ: “đàn ông nói riêng và con người nói chung thích chinh phục những vật lạ trên thế gian. Thời sinh viên ở Pháp, những cô Đầm là đối tượng thu hút niềm khao khát không thể phủ nhận nhưng sau nhiều năm sinh hoạt thì sự hấp dẫn đó từ mới đã thành cũ! Một lần ra đi, trong tiềm thức kẻ xa nhà luôn ấp ủ tình quê hương non nước và hình ảnh đẹp nhất vẫn là nét ngây thơ độc đáo rất dân tộc qua chân dung người con gái Việt... Cái thơ ngây dụi dàng này người ta còn gọi là duyên khác hẳn với nét mạnh bạo trực tiếp ở người đẹp phương Tây”.
.

Chuyện khó tin mà có thật! Nghe tôi kể cứ tưởng cái xe Cady chỉ là hư cấu giống chiếc giầy trong sự tích “Cinderella” nhưng đây chính là kỷ niệm một lần giữa chúng tôi... Trưa hôm ấy, xem như định mệnh đã an bài vì sau những ngày hè tại Pháp, em tôi về New York, ngậm ngùi dứt tình với vị bác sĩ đang theo đuổi. Ở bên này do tình yêu thôi thúc, bạn tôi nhanh chóng lấy chuyến bay sang gặp nàng bên New York. Một người bỏ con tim ở Paris, một người gởi trái tim bên New York... Cuối cùng, họ mướn Câu Lạc Bộ đối diện khu vườn Luxembourg làm đám cưới ngày cuối tuần mùng 1 tháng 5, 1976 có sự hiện diện của mẹ tôi và đông đủ bạn bè vào giữa thập niên 70.
.

Sau vài năm cùng tôi “ngao du sơn thủy”, “tha phương cầu thực” ở Casablanca miền Bắc Phi, họ lập nghiệp tại tiểu bang Cali, sống an vui hạnh phúc với những thành quả đáng kể như đa số các gia đình trung lưu. Họ có ba người con tốt nghiệp Đại học, hiện làm việc trong ngành Y & Dược khoa. Tưởng rằng với hoàn cảnh thuận lợi sẵn có, hai người sẽ sống già bên nhau... Ai ngờ họ đã chia tay khi em tôi trở thành tín đồ đạo Tin Lành ở giáo phận nam Cali. Ban đầu thì một mình, một đạo, một niềm tin nhưng thời gian sau, em tìm mọi cách thuyết phục chồng con, anh em và cả bố mẹ theo con đường em đi... đến khi thất bại thì giọt nước đã tràn ly! Sau đó, em từ từ xa lánh gia đình và chỉ thân thiết với những người đồng đạo cùng nhà thờ.
.

Thiết nghĩ đạo nào cũng giúp chúng ta sống ngay thẳng. Hẳn không có đạo xấu mà chỉ có người xấu! Lợi dụng lòng tin tuyệt đối cộng với lời dụ dỗ ngon ngọt, môn đệ dễ trở thành những kẻ cuồng tín đặt hết tương lai vào một viễn ảnh huy hoàng mang tính vĩnh cửu mai sau. Em tôi đã theo đạo như những “con cừu của Panurge” mất hẳn tư duy, chỉ biết nghe và làm theo người khác một cách vô ý thức đến tận cuối đời vẫn còn u mê.
.

Nguyên nhân từ đâu chẳng rõ nhưng dưới mắt tôi, em chính là nhân chứng sống cho mối quan hệ bất hảo giữa đạo và đời... Em với tôi cùng tin có đấng Tạo Hóa nhưng khác biệt ở chỗ em học hỏi, đặt niềm tin sắt đá vào một Người, còn tôi thì vẫn đi “tìm” Thượng Đế nên không thể đứng chung cùng hàng ngũ. Ngược lại, tôi “thấy” Phật và xem ngài như một người Thầy đắc đạo, ngài ở trong tôi và giúp tu thân, khai mở tâm trí cho đúng với đạo từ bi, bác ái, hạnh phúc của con người chứ tuyệt đối không thấy phép lạ huyền diệu bao quanh.
.

Đạo là tâm linh, đời là cuộc sống, cả hai đều “vô thường”... Tâm linh cần trong sáng và cuộc sống cần thực tế. Đạo bên đạo, đời bên đời nương nhau mà hành đạo giúp đời... Không nên kết nối hai làm một nếu ta chưa quyết tâm trở thành tu sĩ. Niềm tin luôn luôn là một sự chọn lựa cá nhân. “Cộng” niềm tin đồng nghĩa với Cộng sản sẽ kéo theo tranh chấp, đổ vỡ và đương nhiên thất bại.
.

Những năm tháng sau cùng, em dị nghị coi tôi như người ngoại đạo “ngoan cố” nên tình anh em mất đi nhiều cảm thông. Kỷ niệm dĩ nhiên cũng nhạt nhòa từ đó! Sáng nay đi dự lễ hỏa táng, tôi thấy vài người khóc nức nở, không sao cầm được nước mắt làm tôi nhớ đến bài thơ của Marie Elizabeth Frye mà một bà giáo sư Anh văn ở trường Nguyễn Trãi năm xưa đã gởi tặng khi nghe tin buồn. Bài thơ “Do Not Stand at My Grave and Weep” viết năm 1932 quả tình rất hay và có ý nghĩa. Marie Elizabeth Frye (1905-2004) là thi sĩ nổi tiếng khắp thế giới với một bài thơ! Nếu ai hỏi “giờ này em ở đâu?”, tôi sẽ không thể nói “em tôi đang ở thiên đàng...” nhưng Marie Elizabeth Frye có câu trả lời bằng những vần thơ:
.

Do not stand at my grave and weep.

I am not there I do not sleep.

I am a thousand winds that blow.

I am the diamond glints on snow.

I am the sunlight on ripened grain.

I am the gentle autumn rain.

When you awaken in the morning's hush

I am the swift uplifting rush.

Of quiet birds in circled flight.

I am the soft star that shines at night.

Do not stand at my grave and cry.

I am not there I did not die.
.

Lời cuối, xin chúc em hưởng mọi phúc lành bên cạnh Chúa như em hằng mong đợi. Thân em một nắm tro tàn rồi đây sẽ tan ở biển Thái Bình như cát bụi trở về hư không nhưng rối ren và hệ lụy còn ở lại cõi trần. Cơn mưa vừa tạnh... Vĩnh biệt em, cô em gái duy nhất với những kỷ niệm một thời đáng yêu!

05/10/2016

Cao Đắc Vinh 


.
.

Ý kiến bạn đọc
15/05/201621:25:16
Khách
*******************************************************************************************

Do not stand at my grave and weep.
I am not there I do not sleep.
I am a thousand winds that blow.
I am the diamond glints on snow.
I am the sunlight on ripened grain.
I am the gentle autumn rain.
When you awaken in the morning's hush
I am the swift uplifting rush.
Of quiet birds in circled flight.
I am the soft star that shines at night.
Do not stand at my grave and cry.
I am not there I did not die.


Xin tam dich bai tho tren nhu sau:

@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@

Xin dung dung khoc noi toi an nghi
Toi khong o do khong yen nghi
Chi la ngan gio thoang bay
Chi la hat kim bang long lanh
Chi la hat thoc chin choi chan anh nang
Chi la hat mua thu em ai
Luc ban mai khua ban tinh giac
Chi la su xon xao thoang hien ngay
Lam nhung chim ngoan bay luon vong
Chi la sao lung linh chieu anh dem
Xin dung dung khoc noi toi an nghi
Toi khong o do khong qua vang

@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@

San Diego, May 15, 2016 – Do D. Hung – NT71
15/05/201609:38:49
Khách
Bùi ngùi! Phận người như gió thoang mây bay. Phút chốc vội lìa tan.
12/05/201622:08:07
Khách
Xin Kinh Chao

Cao Đắc Vinh - NT58

Kinh Anh -
DO D. HUNG - NT71
12/05/201621:48:41
Khách
Xin thanh that chia buon cung huynh truong Nguyen Trai cua VNCH ve su ra di cua "Su Muoi" cua Huynh, co le la "Su Ti" cua toi (Dai Bac 105 Ly Ban Khong Toi.

Kinh Su Huynh - Hung D. DO
12/05/201619:56:19
Khách
Đạo thì tốt mà cuồng đạo, cuồng tín thì không nên một tí nào !
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.