Hôm nay,  

Tình Mẫu Tử

7/2/201600:00:00(View: 5462)
Lilika Naros (Hy Lạp) - Nguyễn Văn Sâm dịch

Lilika Nakos sanh năm 1903 tại Athens, có truyện ngắn đầu tay đăng trên tờ tạp chí Europa của Pháp. Bà được coi là tác giả Hy Lạp cận đại khai thác vấn đề nhân bản. Một trong những truyện nỗi tiếng của bà là Lost Soul (1943). Truyện ngắn Maternity (Tình Mẫu Tử) được coi là cổ điển và được dạy ở nhiều trường Đại học trên thế giới vì nói lên được hai mặt đối cực của con ngưởi: dửng dưng / giúp đở trước sự hoạn nạn của người khác cũng như nói lên được bản năng làm mẹ của người phụ nữ. Bối cảnh dùng trại tỵ nạn người thiểu số Armenian nhắc cho ta về tình trạng tỵ nạn của người Việt mình trước kia cũng như xa gần nhắc đến sự bị tàn sát của dân tộc nầy với cả triệu người chết do đế quốc Ottoman (nay là Thổ Nhĩ Kỳ) vào thế kỷ trước. (NVS)

.

Họ đến Marseilles đã hơn tháng nay rồi, trại tỵ nạn của họ, người Armenian, ở ngoại ô trông giống như một ngôi làng nhỏ. Họ sử dụng bất cứ thứ gì có được để che nắng đở mưa: người kha khá thì dùng tăng, dùng lều, phần lớn còn lại không thể tìm thấy gì khả dĩ tốt hơn, bèn tạm trú dưới những tấm thảm treo bốn góc trên bốn cọc cây. Ai may mắn hơn thì tìm được tấm vải treo phủ bốn bên để che ánh mặt trời chói chang. Rồi thì họ coi đây là nhà. Đàn ông đổ xô đi tìm việc-- bất cứ thượng vàng hạ cám việc gì cũng được-- để khỏi bị cơn đói hành hạ, với lại để lũ trẻ còn có chút gì đó bỏ vô miệng. Trong đám này, thằng Mikali không thể làm gì được hết. Nó ăn bánh mì dư của những người ở lều kế bên thương hại liệng ra cho. Nặng trĩu lòng nó khi nhận. Nó là thằng bé bự xộn, mười bốn tuổi rồi chứ bộ, lại mạnh khỏe nữa. Nhưng làm sao tìm được công ăn chuyện làm khi nó phải mang trên lưng gánh nặng là một đứa bé sơ sanh? Thằng bé ra đời gây nên cái chết của mẹ nó, từ đó tới giờ nó khóc i-ỉ suốt ngày vì đói khát. Làm sao có thể chấp nhận cho Mikali làm khi mà chính người đồng hương với nó cũng đuổi nó ra khỏi láng vì không chịu nỗi tiếng khóc rĩ rã liên tục của thằng bé, tiếng khóc khiến họ cả đêm mất ngủ. Chính thằng Mikali cũng chán nãn về tiếng khóc nầy. Đầu óc nó trống rỗng, nó lang thang như một kẻ vô hồn. Chết mệt vì thiếu ngủ và rã rời, nó luôn phải lê bước với gánh nặng điếc tai nhức óc trên vai, gánh nặng một sự ra đời làm cho cuộc sống nó vô vàn khổ sở. Đứa bé quả đã chọn không đúng lúc cũng không đúng chỗ để xuất hiện trên trái đất này. Tiếng khóc nó làm mọi người chán nãn. Họ đã chịu đựng quá nhiều khổ lụy rồi, họ thương hại ước mong thằng bé chết đi cho họ được yên thân. Nhưng nó không chết, nó tuyệt vọng tìm con đường sống bằng cách khóc lớn hơn, báo động cái đói khát của mình. Mấy người đàn bà vô tâm đã bịt tai lại, và Mikali đi lang thang như một thằng say. Không đồng xu dính túi để mua sữa cho thằng bé, không nhờ được người đàn bà nào trong trại sẵn lòng giúp cho thằng bé bú thép. Một chút thôi để đở lòng cũng được!

Một ngày kia, không thể chịu đựng hơn nữa, thằng Mikali đi về phía bên kia trại, về phía trại của người Anatolia: họ cũng là người tỵ nạn, trốn chạy sự tàn sát của dân Thổ Nhĩ Kỳ ở vùng Tiểu Á. Có người nói với Mikali rằng ở đấy có một người đàn bà có thể thương, giúp thằng bé. Nó đi mà lòng hi vọng tràn trề. Lều trại của họ cũng giống như lều trại ở bên nó-- cũng cái nghèo khổ đó. Mấy bà già còng lưng trên sạp ván kê sát đất; trẻ con chân không, chơi vọc ở mấy vũng nước dơ. Khi nó tới nơi, vài bà già nhỏm dậy hỏi thăm nó cần gì, nhưng nó tiếp tục tiến bước, chỉ ngừng lại trước một một căn lều mở cửa có treo hình Đức Mẹ, từ bên trong vọng ra tiếng khóc của trẻ thơ. "Xin vì Đức Mẹ Bác Ái, Đức Mẹ mà quý bà đã thờ phượng,' nó nói bằng tiếng Hy Lạp, 'Hãy thương hại đứa trẻ mồ côi tội tình này, cho nó một chút sửa. Tôi là một người Armenia khốn khổ bần hèn....' Một thiếu phụ duyên dáng, đen dòn, hiện ra. Tay cô bồng một đứa trẻ đang nút vú mẹ, sung sướng tuyệt cùng, đờ đẫn, lim dim mắt. Cô ta hỏi, "Đưa đứa nhỏ coi, trai hay gái đây?" Tim Mikali đập mạnh vì vui sướng. Vài ba người hàng xóm đến gần để coi, họ giúp Mikali lấy cái bịt đựng thằng bé ra khỏi vai nó, họ tò mò chồm tới nhìn cho rõ. Nó dở tấm khăn ra. Mấy người đàn bà thét lên những tiếng hãi hùng.

Thằng bé không còn chút nhân dạng gì nữa. Cái đầu bị bự lên như trái bí, thân hình đã mỏng thiệt mỏng rồi còn teo rút lại nhỏ xíu nhỏ xiu. Bấy lâu nay thằng bé chỉ có ngón tay để bú, ngón tay bây giờ sưng nở lên, không còn đút vừa vô miệng nó nữa. Thiệt là khủng khiếp! Chính Mikali cũng lùi lại vì sợ hải. "Mẹ ơi!" một người đàn bà kêu lên, "đây là một con dơi hút máu, quả thiệt rồi, một con dơi hút máu! Có sữa, tôi cũng không dám cho nó bú đâu." "Chính là một kẻ phản Chúa!" một người nữa nói trong khi làm dấu thánh giá. "Đúng là con của tụi Thổ rồi!" Một bà già xọm chập choạng đến. "Hu, hu!" bà kêu thét lên khi thấy thằng nhỏ. "Quỷ dữ đây mà!' Rồi quay về phía Mikali bà la mắng: "Đi! Đi ra khỏi chỗ nầy ngay, đồ ôn hoàng dịch lệ xui xẻo, đừng có héo lánh tới chỗ nầy nữa nha. Mầy đem tai vạ tới cho tụi tao đó!" Rồi thì tất cả bọn xúm lại đuổi xô, đe dọa nó. Mắt nó nhòe nhoẹt, nó ra đi, mang theo đứa nhỏ vẫn còn bị cơn đói hành hạ.

Không thể làm gì được hết, đứa nhỏ đã bị kết án tử bằng cách bỏ đói rồi. Chính Mikali cũng cảm thấy vô cùng cô đơn và tuyệt vọng. Một luồng hơi lạnh chạy dài trên sóng lưng khi nó nghĩ tới đang mang trên lưng mình một con quái vật. Nó ngã vật xuống trên bóng mát của một căn lều. Trời vẫn còn quá ấm. Khung cảnh trãi rộng ra trước mắt nó là một giải đất rộng, khô cằn, đầy dẫy rác rếnh. Còi trưa kêu lên từ đâu đây. Tiếng còi gợi nó nhớ rằng mình không ăn gì hết từ hôm trước lận. Phải lỏn ra ngoài phố, quanh mấy quán cà-phê ngoài đường, bóc trộm mấy miếng bánh mì họ ăn dỡ dang còn lại trên dĩa mới được; hay là lục lọi trong mấy cái thùng rác kiếm món gì mà chó chưa ăn. Thình thình nó cảm thấy cuộc đời sao mà đầy những kinh hoàng, nó đưa tay lên che mặt, khóc trong nỗi tuyệt vọng vô bờ. Khi nó ngước mặt lên, một người đàn ông đang đứng trước mặt nó, ngó xuống. Nó nhận ra đây là người Tàu thường đến trại bán mấy thứ trang sức rẽ tiền làm bằng giấy hay là những thứ lẩm cẩm để đeo tay, chỉ thấy chú bán mà không thấy ai mua. Thường thường người ta trêu chọc chú vì màu da và đôi mắt xếch của chú, bọn nhỏ hát ghẹo: "Cắc chú ba tàu thằng nào cũng như thằng nấy, thằng nào láng cháng đuổi cha nó đi về Tàu..." Mikali thấy chú nhìn xuống nó trìu mến, môi mấp máy như muốn nói điều gì. Rồi thì chú nói: 'Đừng khóc, đừng khóc chú bé..." Rồi rụt rè nói thêm: 'Đi theo tôi...." Mikali chỉ có thể trả lời bằng cái lắc đầu; nó muốn chạy trốn. Nó từng nghe biết bao nhiêu là chuyện kinh khủng về sự tàn ác của người phương Đông rồi! Ở trại nó còn nghe cả những chuyện như họ có thói --- giống người Do Thái--- đi bắt cóc trẻ con Công giáo về giết để uống máu! Nhưng người đàn ông kia vẫn đứng đó, không nhúc nhích. Vì vậy trong lúc quá tuyệt vọng, Mikali đã đi theo ông ta. Còn chuyện xấu xa tồi tệ nào hơn nữa có thể xảy ra cho nó chứ? Nó đi mà run rẩy, yếu nhớt, gần té với thằng nhỏ trên lưng. Người Tàu đến gần nó, ẳm giùm nó đứa nhỏ, ôm vào lòng, trìu mến. Họ qua nhiều khu đất trống, rồi thì rẽ vô con lộ nhỏ dẫn đến một cái lều gỗ có vườn rau nhỏ bao quanh. Ông ta ngừng trước cửa, vổ tay hai cái. Có tiếng bước chân nhè nhẹ bên trong, một người nhỏ thó bước ra mở cửa. Nhìn thấy ông ta, khuôn mặt người đàn bà rạng rỡ lên, một nụ cười hạnh phúc nở ra. Bà ta chào họ, đơn giản. Khi Mikali đứng chôn chân ở đó, bối rối thì người Tàu nói với nó: 'Vô đi chứ; đừng ngại ngùng gì hết. Đây là vợ của tôi." Mikali đi vô trong, phòng rộng hơn mình tưởng, chia ra ở giửa bằng một tấm bình phong giấy màu. Mọi chỗ đều sạch sẽ ngăn nắp, dầu rằng có vẽ bần hàn. Trong một góc nhà, nó thấy một cái nôi mây. "Đây là con tôi," thiếu phụ nói trong khi duyên dáng nghiêng đầu về một bên, cười với nó. "Con tôi rất nhỏ, đẹp lắm; đến đây coi." Mikali đến gần, thầm thán phục. Một đứa nhỏ bụ bẩm, nước da không đen như mẹ nó, đang ngủ thanh bình, được đắp bằng một tấm vải có những thêu móc vàng, giống như một tiểu vương gia. Rồi thì người chồng kêu vợ lại, mời vợ ngồi xuống chiếu, không nói lời nào, ông để lên đùi nàng đứa nhỏ đang chết đói rồi cúi đầu thật sâu trước vợ. Người đàn bà ngạc nhiên, khum xuống kéo tấm vải che đứa nhỏ ra. Hiện ra trước mặt nàng đầy đủ tất cả bộ xương kinh khủng của nó. Nàng kêu lên-- một tiếng kêu thương hại tuyệt cùng-- rồi ẳm đứa nhỏ xiết vào chỗ trái tim, cho nó bú. Với một cử chỉ dung dị, bình thường, nàng kéo vạt áo phủ bộ vú căng sửa, đứa trẻ đáng thương, háo đói đang bú chùn chụt ở đó.

(Dịch theo bản tiếng Anh)

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.