Hôm nay,  

Mùa hè đi về xứ thổ dân da đỏ

10/08/201604:51:00(Xem: 7610)
Mùa hè đi về xứ thổ dân da đỏ
 
Bùi Văn Phú

 

Tuần qua chúng tôi rủ nhau đi chơi New Mexico. Tiểu bang này nổi tiếng có hang động Carlsbad Caverns mà trong chuyến đi thăm công viên quốc gia hôm đầu tháng Bảy vừa qua, Tổng thống Barack Obama và gia đình đã ghé tham quan, cùng với Yosemite ở California.

 

Chúng tôi bay đến El Paso, Texas vì đây là thành phố lớn gần nhất, rồi từ đó thuê xe lái qua Carlsbad, New Mexico.

 

Vừa ra khỏi phi cơ là thấy mũ nón và giầy cao bồi là những nét đặc thù của Texas được trưng bày trong phòng đón khách sân bay.

 

Với vài giờ ở đây, sát biên giới Mexico mà bên kia là Juárez, như San Diego với Tijuana ở California, El Paso nổi tiếng là “The Capital of Mexican Food in the USA” nên chúng tôi đi tìm quán ăn Mễ, một quán bên cạnh nghĩa địa được nhiều cư dân mạng khen ngon.

 

Quán L & J Cafe mở cửa từ năm 1927, nằm trong khu dân cư. Hơn ba giờ chiều mà đông khách. Chip chiên nóng mang ra, mỏng và giòn, chấm salsa ớt xanh hay ớt đỏ xay nhuyễn cay, thơm. Salsa ớt đỏ là đặc sản. Các món taco hay burrito mỗi phần ăn không đắt. Tôi gọi một đĩa 3 cái steak tacos với cơm, rau, cheese, đậu đen xay nhuyễn, guacamole (bơ ngào) giá 9 đô 29 xu là cao nhất, các món khác trên dưới 8 đô. Đoàn chúng tôi tất cả 9 người, gọi các món khác nhau, ai cũng khen ngon và sẽ viết còm trên Yelp.

 

Không biết ở đây có bao nhiêu người Việt sinh sống, nhưng đọc báo El Paso Times ngày 27 tháng Bảy phần LifeStyle có bài viết chiếm gần hết trang nhất về cách làm gỏi cuốn tôm kiểu Việt Nam cùng với cách pha nước mắm chấm. Như thế món ăn Việt cũng được biết đến ở miền tây Texas.

 

Ăn xong, ra lại xa lộ đi Carlsbad. Trên đường có trạm dừng mà các xe phải vào. Nhân viên kiểm soát biên giới hỏi:

 

“Were you born and raised in the United States?” [Quí vị được sinh ra và lớn lên tại Mỹ?].

 

Tôi trả lời hai con sinh ra lớn lên ở Mỹ còn vợ chồng tôi sinh ở Việt Nam và đã thành công dân Mỹ.

 

Ông hỏi tiếp là thành công dân Mỹ bằng cách nào, ở đâu?

 

Tôi trả lời “By naturalization in San Francisco.”

 

“Have a nice trip”. Ông chúc chúng tôi có chuyến đi chơi vui.

 

Đường từ El Paso đến Carlsbad dài 170 dặm, theo xa lộ 62-180. Hai bên toàn sa mạc, núi non. Khi còn khoảng chừng 30 dặm thì vào New Mexico. Hơn 8 giờ tối đến khách sạn.

 

Nghỉ ngơi chốc lát rồi đi tìm quán ăn tối. Cạnh khách sạn Hampton có tiệm Walmart khổng lồ, trong đó có bán thức ăn, rau trái và có cả tiệm bánh mì Subway. Chúng tôi mua nước, bia và một số đồ ăn vặt cho ngày mai rồi vào Subway ăn tối vì không muốn đi đâu xa.

 

Carlsbad là một thị trấn ở giữa sa mạc, như nhiều thành phố lớn nhỏ khác của Nevada, Arizona, Utah hay California, Texas ở miền tây Hoa Kỳ.

 

Bay ngang nước Mỹ, từ cửa sổ phi cơ nhìn xuống miền tây Hoa Kỳ toàn sa mạc khô cằn với đất cát và núi đá nâu. Nhưng giữa đất đá thỉnh thoảng vẫn thấy những cánh đồng mầu xanh hình chữ nhật hiện rõ lên khiến tôi tự hỏi dưới đó đang trồng cấy các thứ cây hay rau cỏ, hoa trái gì.

 

Giữa sa mạc mênh mông, người Mỹ đã xây dựng lên nhiều thành phố lớn bé. Palm Springs là khu nghỉ dưỡng, chơi gôn nổi tiếng ở California, Las Vegas là thủ đô đen đỏ của Nevada, Phoenix ở Arizona, Santa Fe hay Albuquerque của New Mexico đều nằm giữa sa mạc. Chính khả năng và trí tuệ con người đã có thể mở đường, dù cheo leo vách núi, rồi đem điện, nước, kỹ thuật đến để tạo dựng nên những khu vực cư dân với đời sống sầm uất.

 

Hôm nay chúng tôi đi chơi, trước hết là muốn thăm Carlsbad Caverns nằm trong một dãy núi cao hơn 4 nghìn bộ. Lái xe lên đỉnh rồi được thang máy đưa xuống 750 bộ (khoảng 250 m) trong lòng núi để bắt đầu đi vào những hang động, xem thạch nhũ với nhiều hình dạng khác nhau.

 

Được khám phá hơn trăm năm trước, khi có người thấy từng đàn dơi bay ra từ một cửa hang. Từ cửa đó nhà thám hiểm Jim White đã lần mò vào đến những hang động bên trong.

 

Ngày nay, mỗi khi trời bắt đầu tối, du khách có thể đến cửa hang để xem khoảng 400 nghìn con dơi, thuộc giống Brazilian không to lắm, bay ra đi ăn tối và sáng sáng lại bay trở về hang để ngủ.

 

Khu hang động Carlsbad Caverns được nâng lên hàng công viên quốc gia từ năm 1930 và năm 1995 được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới.

 

Giữa nơi hang động sa mạc này có người Việt sinh sống không? Nhà tôi kể tối hôm đi chợ Walmart có nghe vài người nói tiếng Việt. Ở khách sạn tôi xem niên giám điện thoại, tìm các họ Nguyễn, Trần, Lê, Phạm, Bùi, Võ chỉ có duy nhất tên một người họ Nguyễn.

 

Trước thời đại Internet xem niên giám điện thoại tìm họ Việt có thể đoán biết trong khu vực có đông người Việt hay không, nay với điện thoại cầm tay, cách này không còn chính xác nữa. Nhưng vào mạng tìm tiệm neo (nail salon) thì có thể tìm ra người Việt trong vùng. Cách khách sạn Hampton vài khu phố có tiệm Hot Nail & Spa, trên đường S. Canal và tôi đoán với xác xuất cao chủ tiệm là người Việt. Tôi gọi điện thoại, nói tiếng Việt và được trả lời bằng tiếng Việt. Định vờ làm hẹn cho nhà tôi đi sơn móng tay ở đó để xem giá ra sao nhưng được trả lời là tiệm không phục vụ khách Việt. Như thế có phạm luật kỳ thị hay không?

 

Từ Carlsbad chúng tôi đi Roswell, đường dài hơn 70 dặm, theo xa lộ 285 về hướng bắc. Hai bên đường cũng chỉ sa mạc nhưng thấy nhiều giếng dầu đang hoạt động, có bồn lọc dầu nhỏ quanh đó. Vào đến thị trấn Artesia có nhà máy lọc dầu lớn, nhiều nơi trồng cây xanh, có chỗ với bảng ghi là trung tâm thí nghiệm nông nghiệp của đại học tiểu bang.

 

Hôm qua đi ngang đây thấy đàn bò cả nghìn con, hôm nay không thấy đâu nữa. Có thể những anh chàng cowboy đã dẫn chúng đi về một vùng khác như trong phim “City Slickers” với diễn viên Billy Crystal mà tôi đã xem cách đây hơn 20 năm về những cowboy ở “miền tây hoang dã” của nước Mỹ.

 

Roswell có Bảo tàng UFO. Vào thăm, nhìn xem, đọc những tài liệu, những ghi chú cũng không thuyết phục tôi được điều gì. Câu hỏi đặt ra là có người từ hành tinh khác đã đáp xuống đây vào năm 1947 hay không và có phải là chính phủ Mỹ đã tìm mọi cách để che giấu chuyện này? Tôi cho đó chỉ là những huyền thoại thêu dệt rồi được dựng thành phim. Tiểu bang New Mexico có nhiều căn cứ quân sự, có trung tâm thí nghiệm nguyên tử ở Los Alamos, cách Roswell chừng 3 giờ xe, nơi đã có Project Manhattan chế bom nguyên tử thành công vào thập niên 1940.

 

Có thể người dân Roswell thời đó đã thấy một vài tín hiệu, vệt sáng hay tiếng nổ do các hoạt động quân sự bí mật của chính phủ Mỹ và cho đó là UFO, đĩa bay, từ hành tinh khác đáp xuống.

 

Lái xe từ Roswell lên Santa Fe theo xa lộ 285 lên phía bắc, trong lúc vào một trạm nghỉ bên đường giữa sa mạc mênh mông thì bỗng dưng có tiếng gầm rú làm giật mình rồi trên bầu trời xuất hiện một máy bay phản lực quân sự mầu đen, không huy hiệu bay ngang.

 

Lên Santa Fe ăn trưa ở quán Mễ trên đường Cerrillos, cũng rất đông khách. Ăn xong đi chơi phố cổ.

 

Nhà nguyện Lorreto với chiếc cầu thang xoắn được coi là phép lạ của Thánh Giuse vì cả trăm năm trước, những nữ tu ở đây cho một ông khách vào ở trọ và người khách này có thể làm được cầu thang với những vật liệu như thế là điều không thể, trước khi ông ra đi.

 

Santa Fe, cũng như Albuquerque là hai thành phố lớn của tiểu bang và khắp nơi đều mang kiến trúc Adobe, nhà vuông vuông bằng đất xét đỏ đỏ, nâu nâu, mái phẳng, dù là nhà riêng, chung cư, hay khu thương mại, khách sạn. Nghệ thuật ở đây theo truyền thống người da đỏ, pha lẫn với nét văn hoá cổ truyền của Mexico qua những giỏ mây, những bình đất, xâu chuỗi, vòng đeo.

 

Tối đi ăn nhà hàng Thái. Quán MuDu đông khách, phải chờ cả tiếng đồng hồ nên chúng tôi đổi qua nhà hàng Ý Andiamo, gần phố cổ. Tuy không chờ lâu để được vào bàn, nhưng cách phục vụ không tốt. Thiếu bánh mì, chờ lâu thức ăn mới mang ra. Bồi bàn thiếu lịch sự.

 

Sáng sớm hôm sau đi Albuquerque, chừng 60 dặm, bằng quãng đường từ San Francisco đi San Jose, nhưng hai bên đường không nhà, thỉnh thoảng có bảng chỉ vào khu bảo tồn của người da đỏ và trong đó có sòng bài.

 

Hôm nay đi nhiệt khí cầu (hot air balloon). Đến địa điểm lúc sáu giờ sáng, khoảng hơn bảy giờ là 12 khách được lơ lửng trên không, lên cao dần 1 nghìn bộ, rồi 2 nghìn. Có lúc xà xuống chạm bùn sông Rio Grande rồi lại bay lên, cao nhất là hơn 10 nghìn bộ.

 

Albuquerque là thủ đô của trò chơi trên không này vì thế đến đây mà không được chầm chậm bay lên thì coi như chưa đến New Mexico. Tối về khách sạn có tin khí cầu rơi ở Texas làm 16 người chết. Nếu chuyện này xảy ra trước thì có nhiều người sáng nay lo. Nhưng nghĩ lại thấy trên đời đâu có gì an toàn tuyệt đối, tai nạn thường xảy ra trên xa lộ, trên máy bay. Nếu sợ sẽ chẳng bao giờ vui chơi được.

 

Ở đây có hàng quán Việt như Café Dalat, Phở Saigon 1. Cuối tuần mà quán không mở cửa cho đến 10 giờ 30. Chúng tôi ăn phở ở Saigon 1 trên đường San Pedro. Giá phải chăng, không ngon bằng ở San Jose. Bà chủ được ai đó từ California gửi cho một gói rau muống to, bà mừng lắm và cho chúng tôi biết tiểu bang New Mexico cấm trồng loại rau này.

 

Rời quán Việt chúng tôi tham quan phố cổ. Có nhà thờ cổ San Filipe de Neri, vài khu phố đã có từ hơn trăm năm với hàng quán được bảo tồn ở dạng nguyên thủy, nhưng không lớn bằng ở Santa Fe.

 

Chiều về lại Santa Fe đi thăm bảo tàng Georgia O’Keeffe. Theo cách nhìn riêng, tôi thấy tranh của bà không thu hút. Tuy nhiên đọc qua tiểu sử và cách biểu đạt những cảm xúc về tình dục qua nét vẽ các loại hoa của bà vào thời đó thì đó là mới lạ và táo bạo.

 

New Mexico có Atomic City, thành phố nguyên tử. Bạn có biết ở đâu không? Đó là Los Alamos, nổi tiếng trong giới nghiên cứu khoa học vì có Los Alamos National Lab, là nơi đã thực hiện thành công Project Manhattan chế ra hai trái bom nguyên tử đầu tiên vào thập niên 1940 và đã được Hoa Kỳ ném xuống Nagasaki và Hiroshima ở Nhật để chấm dứt Thế chiến Thứ II.

 

Đến đây, du khách đi trên những xe buýt với bảng hiệu Atomic City, nhưng không phải để thăm trung tâm nghiên cứu khoa học, vì là khu vực cấm vào. Hầu hết đi xe này lên công viên Bandelier trên đỉnh núi thăm nơi ngày xưa dân da đỏ sinh sống trong những hang hốc đá.

 

Khi đến công viên, tôi thấy một trụ điện thoại công cộng với cuốn niên giám treo bên cạnh. Mở xem tên họ Việt cũng chỉ tìm thấy duy nhất một người họ Nguyễn, không có họ nào khác. Tôi đoán với xác xuất cao là người này phải là một nhà khoa học đang làm việc cho phòng thí nghiệm nguyên tử ở đây.

 

[theo VOA]

 blank

H01: Chip chấm với salsa trong quán ăn ở El Paso (ảnh Bùi Văn Phú)

 blank

H02: Hang động Carlsbad Caverns (ảnh Bùi Văn Phú)

 blank

H03: Lơ lửng trên cao độ 10 nghìn bộ với nhiệt khí cầu (ảnh Bùi Văn Phú)

 blank

H04: Công viên núi đá Bandelier, Los Alamos (ảnh Bùi Văn Phú)

 blank

H05: Nhà nguyện Lorreto và phố cổ Santa Fe (ảnh Bùi Văn Phú)

 blank

H06: Bảo tàng UFO ở Roswell (ảnh Bùi Văn Phú)

 blank

H07: Bảo tàng nghệ thuật trưng bày tranh của Georgia O’Keeffe (ảnh Bùi Văn Phú)

 

 


.
.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.