Hôm nay,  

Genghis Khan và Đế quốc Mông cổ

20/08/201600:01:00(Xem: 11119)
Genghis Khan và Đế quốc Mông cổ

Trần Văn Giang
.
.

C:\Users\Annemarie\Desktop\Godaddy_NNHN2\Media\GengisKhan.jpg

(Ảnh Genghis Khan vẽ bởi người Trung Hoa)

.

Lời mở đầu

Trung cộng chỉ vừa mới chân ướt chân ráo bước vào giai đoạn phát triển kinh tế và kỹ nghệ của thế kỷ 21 là đã bắt đầu dở trò hèn hạ, hù dọa, chèn ép lãnh địa và lãnh hải các nước lân bang nhỏ hơn.  Nhìn vào lịch sử thế giới, thực tế cho thấy, Trung hoa chỉ là một con chuột giấy không hơn không kém; chưa đủ “phẩm chất” để có được tiếng gọi là “cọp giấy” bởi vì Trung hoa luôn luôn bị các nước lân bang, nhỏ bé hơn, lạc hậu hơn – Trung hoa gọi các nước lân bang một cách khinh miệt là“nam man, bắc rợ” – như nước Kim, Mông cổ (Mongolia), Mãn Thanh (Manchuria) chiếm và cai trị hàng thế kỷ.  Đặc biệt là nước Mông cổ nằm giáp ranh giới phía bắc Trung hoa với diện tích chỉ bé bằng 1/15 của Trung hoa, ở cuối thế kỷ 12 ( đầu thế kỷ 13,) đã hoàn toàn thôn tính Trung hoa (và khoảng 30 quốc gia khác trên quả đất).  Người thống lĩnh quân Mông cổ lúc đó là Genghis Khan [1] – Tiếng Việt vì viết theo phiên âm tiếng tàu, loại nghe sao viết lại như vậy (Hán âm của chữ Genghis Khan - 成吉思汗  - đọc là “Thành Cát Tư Hãn,” một cái tên dài lê thê nhưng hoàn toàn không có ý nghĩa gì cả). 

 

Bài này viết về Genghis Khan (Tiếng Mông cổ gọi là “Chinggis Khaan” – có nghĩa là “Vua của các vì vua,” “King of kings”) một nhân vật xuất thân rất khiêm nhường từ một bộ lạc du mục bán khai kém văn minh, sống trên vùng đất nghèo nàn toàn đồi trọc, núi và sa mạc Mông cổ mà có thể chinh phục toàn thể nước đã tự gọi mình là Trung quốc  (“nước ở giữa / trung tâm quả đất ?!” - “Đại Hán”), rồi Trung đông và một phần lớn của Âu châu.  Nên biết chỉ có một người thứ hai cũng xuất thân từ giai cấp nghèo nàn của xã hội, từ một nước nhỏ cũng nghèo y như trường hợp Genghis Khan mà chinh phục được con tim của nhiều tầng lớp dân chúng giàu và nghèo trên thế giới đó là Chúa Giê-su (Jesus Christ) của Do thái.

 

Tóm lại, đừng có cậy cái thế nhất thời mà coi thường nước nhỏ, yếu và kém văn minh hơn mình…  Lịch sử luôn luôn lập lại bản cũ.

 

TVG   

 

*

 

C:\Users\Van\Desktop\Working\GengisKhan\GengisKhan2.jpg

(Ảnh Genghis Khan vẽ bởi người Âu châu [2])

.

Genghis Khan (1162 ?- 1227) từ một thiếu niên mồ côi cha rất sớm, thất học (absolutely no formal education) thuộc một bộ lạc nghèo nàn, gia đình bị khinh miệt (outcasted) đã vượt qua các thử thách sinh tồn cam go của đời sống du mục trên đất hồng hoang sa mạc để trở thành một người cai trị đáng nể sợ nhất của lịch sử thế giới.

 

Dần dà, Genghis Khan đã đánh bại những thế lực, những bộ lạc hùng mạnh hơn mình gấp bội phần.  Vào tuổi 50, Genghis Khan hoàn toàn làm chủ, kiểm soát tất cả các bộ lạc thuộc đất Mông Cổ và bắt đầu củng cố quân sự để thôn tính các quốc gia văn minh đã từng quấy nhiễu và đày đọa, bắt dân Mông cổ làm nô lệ hàng thế kỷ.  Genghis Khan đã dẫn kỵ binh (Cavalry) Mông cổ tiến qua sa mạc Gobi,  dẵm nát đồng bằng sông Dương tử Trung Hoa, vào miền trung Á châu, Thổ Nhĩ kỳ, Địa Trung Hải, rặng núi A-Phú-Hãn, Liên sô, Âu châu…  Có nơi nào thiếu dấu chân Genghis Khan đâu hà?

 

Genghis Khan biến một cuộc chiến từ khuôn khổ nhỏ bé du mục, bộ lạc ở miền hoang dã Mông cổ thành cuộc chiến vĩ đại xuyên lục địa với nhiều chiến tuyến dài hàng ngàn dậm xẩy ra cùng một lúc.  Kinh hồn thật!  Genghis Khan phát minh ra kỹ thuật chiến tranh mới: Luôn luôn ở thế tấn công; không lệ thuộc và hệ thống thành trì và chiến hào; dùng kỵ binh trang bị vũ khí nhẹ với rất nhiều cung nỏ, di chuyển thần tốc với nhiều đơn vị nhỏ (cấp số 10, 100, 1000 đơn vị…), mang lương thảo giới hạn [3], vô hiệu hóa các “hiệp sĩ” của Âu châu trang bị áo giáp và vũ khí nặng nề và chiến thuật cố thủ trong các cổ thành lớn với tường cao và hào sâu [4].  Genghis Khan dạy binh sĩ, phần lớn là kỵ binh [5], của mình khép trong kỷ luật, chịu đựng cuộc chiến gian khổ, viễn chinh xa nhà và nhất là cuộc chiến dài ròng rã 2-3 thập niên liên tiếp không hề nghỉ ngơi.

 

Chỉ trong vòng 25 năm, Genghis Khan và quân Mông cổ chiếm nhiều lãnh thổ và cai trị nhiều dân tộc hơn cả Đế quốc La mã đã phải làm trên 400 năm. Genghis Khan cùng với các con và các cháu đã chiếm đóng những phần lục địa sầm uất và văn minh nhất của thế kỷ 13 – diện tích rộng gấp 2 lần những nhà quân sự vĩ đại khác của lịch sử nhân loại từng chinh phục.  Ngựa và lính Mông cổ đã đi từ bờ Thái Bình Dương đến bờ Địa Trung Hải.  Ở cao điểm, “Đế quốc Mông cổ” bao gồm 11-12 triệu dặm vuông (tương đương với tổng số diện tích gộp lại của cả Phi châu, toàn thể Mỹ châu và các đảo).   Lãnh thổ này trải dài từ vùng băng giá Seberia đến nóng ẩm của Ấn độ; từ cánh đồng lúa gạo Việt Nam (?) cho đến cánh đồng lúa mì của Hung Gia Lợi; từ Đại hàn qua Balkans.  Ngày hôm nay, đại đa số dân chúng thế giới sống trên vùng đất đất kiểm soát bởi đế quốc Mông cổ trước đây.  Một điều rất đáng lưu ý là dân số Mông cổ lúc bấy giờ (ở thế kỷ 13) chỉ có trên dưới 1 triệu người; xem ra chỉ bằng một nửa số nhân viên của một vài công ty lớn trên hoàn cầu – Thí dụ: Báo “Forbes 500” ghi là “Wal-Mart Stores” có 2.2 triệu nhân viên trong niên khóa 2015.  Hơn thế nữa, về quân số tham chiến, Genghis Khan chỉ có dưới 100,000 quân.  Tổng số quân Mông cổ này chưa ngồi cho hết ghế của một vận động trường “Football” của Mỹ (Thí dụ: “Rose Bowl” của thành phố Los Angeles, California USA có độ chứa là 104.000).

 

Nhìn về thành quả của Genghis Khan và đem so sánh, dưới mắt của một người Mỹ, thấy rằng, đất Hoa kỳ được khai phóng bởi những lái thương có học và tài giỏi; bởi những nhà trồng tỉa giầu có; giải phóng Hoa kỳ khỏi thế lực bên ngoài, viết lên hiến pháp đầu tiên, mở đường cho tự do thương mại, tự do tôn giáo, báo chí, cải tổ quân đội thành hùng manh nhất thế giới…  trong khi trên cán cân thành quả  mà Đế quốc Mông cổ đạt được chỉ bởi một người du mục nghèo, thất học mà hành trang vỏn vẹn chỉ có sự can đảm, quyết tâm.  Ở thế kỷ 13, Genghis Khan và các kỵ mã Mông cổ đã hoàn toàn vẽ lại bản đồ thế giới; xây dựng lại, và hình thành nhiều dân tộc: Ở Âu châu, Mông cổ đã có công kết hợp nhiều dòng dân “Slavic” khác nhau và nhiều thành phố rải rác thành quốc gia Liên sô.  Ở Á châu, Genghis Khan đã tái lập nước Trung hoa bao gồm đất của nhà Tống ở phía Nam với Mãn châu, Tây tạng ở phía Tây, Vương quốc Tangut và Tân cương ở phía Đông.  Đồng thời, theo chân sự bành trướng thế lực của Mông cổ, các tân quốc gia như Đại hàn và Thái lan đã thành hình…

 

Thật là lạ!  Genghis Khan và đế quốc Mông cổ không phát minh ra một khoa học kỹ thuật nào; không tạo ra một tôn giáo mới nào mới; không để lại tuyệt tác văn học nghệ thuật nào (không tranh ảnh, không đồ sành, không kiến trúc nào đáng lưu ý…); không tìm ra thực phẩm mới hay kỹ thuật canh tác nào…  Tóm lại Genghis Khan và đế quốc Mông cổ để lại rất nhiếu cái “Không.”  Tuy nhiên, các học giả về Mông cổ đồng ý là Genghis Khan đã để lại một thứ rất quý giá đó là là “Những Cái Cầu.”  Vâng “Những Cái Cầu” muôn thuở viết Hoa với cả nghĩa đen và nghĩa bóng.

 

Trên đường tiến quân, quân Mông cổ đã đốt, thiêu hủy, tàn phá rất nhiều thành quách, cung điện, dinh thự.  Tuy nhiên đặc biệt Mông cổ đã xây dựng rất nhiều cây cầu bắc qua sông, qua suối để lính kỵ mã Mông cổ có thể vượt qua… Số cầu mà Genghis Khan đã xây đếm ra nhiều hơn tất cả các nhà cai trị vĩ đại (Great Rulers) khác trên thế giới. 

 

Qua sự chinh phục hết dân tộc này đến dân tộc khác, Genghis Khan cũng đã chuyển các nền văn minh và đặc thù văn hóa từ dân tộc này qua dân tộc khác.  Đây thực sự là một cây cầu trừu tượng nhưng quý giá vô vàn mà Genghis Khan đã để lại.  Dưới thời của Genghis Khan, Marco Polo đã được triều đình Genghis Khan bảo vệ như một nhà ngoại giao, một đại sứ lưu động, được phép đi lại rất thường xuyên trên con đường mà sử gia gọi là “Con đường tơ lụa” (Silk Road  - vùng thương mại mậu dịch tự do lớn nhất lịch sử tử Đông qua Tây – “the history’s largest free-trade zone”) để giới thiệu và buôn các hàng hóa, gia vị từ Âu châu đến Trung hoa và ngược lại.  Marco Polo đã mang Mì (noodles), “Mì ống” (Pasta), Trà, Cờ bạc (playing cards) sang Ý và Âu châu - Cứ tưởng tượng thực đơn nhà hàng Ý mà không có “Pasta” hoặc thế giới không có sòng bạc (Casino) thì đời sống còn có ý nghĩa gì nữa!  Hơn thế nữa, Genghis Khan đem kỹ thuật khai thác hầm mỏ từ Đức quốc sang Trung hoa; mang Y học Trung hoa (Oriental Medecine / herbs) và kỹ thuật lấy dấu tay từ Trung hoa sang Trung đông; Thảm (carpets) của Trung đông được truyền bá toàn cầu cũng nhờ sự cai trị của Genghis Khan.  Vì phải cai trị nhiều quốc gia trong cùng một lúc, Genghis Khan có một tập đoàn rất lớn các thông dịch viên ngoại ngữ ở ngay triều đình và đi kèm theo các đoàn quân viễn chinh.  Việc học ngoại ngữ được dịp phát triển chưa từng thấy trong lịch sử, hết chỗ nói…

 

Về mặt tôn giáo, bản thân Genghis Khan vẫn được coi như là vô thần.  Genghis Khan chỉ tin vào “Trời Xanh Bao la” (The Eternal Blue Sky).  Ngoài ra, Genghis Khan cho dân bị cai trị được toàn quyền tự do tín ngưỡng. Genghis Khan đã tài trợ và cho phép phổ biến các tôn giáo lớn đến những nơi xa lạ:  Việc xây cất các nhà thờ Thiên chúa giáo ở Trung hoa,  Chùa Phật giáo ở Trung Đông, Đền thờ Hồi giáo ở Liên sô…  Genghis Khan gieo rắc và trải đều các đặc thù của văn hóa và tôn giáo lớn đi toàn cầu.  Genghis Khan rất xứng đáng được trao giải “Nobel Hòa binh” hơn bất cứ ứng viên nào trong lịch sử (!)

 

Trước khi Genghis Khan tiến quân qua Âu châu, các văn hóa cổ trọng đại trước đó như  Cổ La mã, Ai cập, Hy lạp, Trung Hoa chỉ có tính cách cô lập, địa phương.  Cùng lắm thì chỉ có vài ba quốc gia ở lân cận biết đến mà thôi.  Trung hoa không hề nghe và biết đến Âu châu và ngược lại.  Nói cách khác, trước thời của Genghis Khan, chưa có ai dám cả gan mạo hiểm đi từ lục địa này sang lục địa khác.  Cho đến khi Genghis Khan chết (1227)  Genghis Khan đã nối Trung hoa và Âu châu qua các cầu văn hóa, y tế, khoa học, ngoại giao, và thương mại.  Cái cầu này vẫn còn vững chắc và tồn tại cho đến ngày hôm nay.  Sau Genghis Khan, đế quốc Mông cổ kéo dài thêm được khoảng 150 năm.  Con cháu của Genghis Khan làm chủ một số vương quốc lớn nhỏ hơn trải rộng từ Liên sô, Thổ nhĩ kỳ, qua Ấn dộ, Trung hoa và Trung đông dưới các vương hiệu khác nhau như Hoàng đế (Emperor, King), Khan, Sultan, Shah, Emir, và Dalai Latma…  Hai người cháu chắt cuối cùng mang dòng máu (bloodlines) của Genghis Khan là Hoàng đế (Emperor) Bahadur Shah II bị thực dân Anh giết năm 1857; và Alim Khan, Emir of Buhara, tiếp tục cai trị Uzbekistan cho đến khi bị cách mạng công sản Liên sô truất phế năm 1920.

 

Một điều có thể làm quý vị kinh ngạc nhiên là, theo kết quả khảo cứu lịch sử và về di truyền qua DNA căn cứ trên “identical Y-chromosomes,” các khoa học gia đưa ra giả thuyết là có đến 0.5% dân số thế giới hôm nay (độ 16 triệu người – cứ một trong 200 người) có mang dòng máu của Genghis Khan.  Chính quý vị cũng là con cháu của Genghis Khan mà không hay à ?  Tương truyền rằng Genghis Khan có 40 vợ (chính thức), một con trai của Genghis Khan cũng có 40 vợ và 1 cháu nội có 22 vợ.  Hàng năm mỗi “Khan” còn “giao lưu” với ít nhất 30 trinh nữ ngoài vòng hôn phối - không phải là vợ (?)

 

Các nhà viết sử đều ghi nhận các lãnh tụ siêu việt có khả năng chinh phục nhiều quốc gia đều có những cái chết, kết liễu cuộc đời khá thê thảm và bất đắc kỳ tử:  Alexander the Great chết lúc 33 tuổi, bị giết hại một cách mờ ám ở Babylon.  Người tùy tùng thân cận dưới quyền sau đó hạ sat hầu hết thân nhân của gia đình Alexander the Great rồi chia nhau đất đai mà Alexander the Great chiếm được trước đó.  Julius Caesar của Đế quốc La mã bị thuộc hạ và cũng là đồng chí đâm chết ngay ở trong phiên họp nghị viện La mã.  Nã Phá Luân sau khi thua trận, mất hết đất đai và tài sản, bị giam cô lập cho đến chết ở một hòn đảo nhỏ xa xôi.  Trong khi Genghis Khan chết một cách bình thản trên giường bệnh ở tuổi 65 (hay 70 vì Genghis Khan có ngày sinh không rõ rang!) trong trại lính, quây quần bởi người thân trong gia đình, tướng sĩ thân tín.   Quân sĩ mang xác Genghis Khan về quê quán sinh trưởng của Genghis Khan và chôn Genghis Khan một cách bí mật theo tục quán người Mông cổ: không lăng tẩm, không Kim tự tháp, không mộ bia, không để lại một dấu vết gì trên mặt đất.

 

Tóm lại, Genghis Khan và nước Mông cổ nhỏ bé đã từng dạy Trung hoa một bài học đáng đồng tiền bát gạo.  Lịch sử sẽ lập lại (?)

 

Trần Văn Giang

 

 

___________

Tham khảo

- Wikipedia

- “Genghis Khan, The making of the Modern World” –by Jack Weatherford (2004)

 

___________

Chú thích

 

[1] Genghis Khan không phải tên thật mà chỉ là tên hiệu. “Khan” có nghĩa là “vu”a (king / ruler) trong khi “Genghis” thì chưa có ai hiểu rõ nguồn gốc và ý nghĩa.  “Genghis” có thể có nghĩa là “đại dương” (ocean) hay là “công lý” (just).  “Genghis Khan” (người Mông cổ đọc là “Chinngsi Khaan”) được tạm dịch là “Đức Thế Tôn” (supreme ruler) hay “Vua của các vì vua” (universal ruler / King of kings).  Tên thật cúng cơm ghi trên khai sinh của Genghis Khan là Temunjin – dịch phiên âm ra tiếng tàu là “Thiết Mộc Chân?”

 

[2] Trong lúc sinh thời và tại quyền. Genhgis Khan cấm tuyệt đối không ai được phép vẽ chân dung hay làm tượng hình gì về mình.  Hình dạng thực sự của Genghis Khan là cả một sự bí hiểm.  Mãi 50 năm sau khi Genghis Khan chết thì chân dung Genghis Khan mới được vẽ ra. Hình ảnh của Genghis Khan có nhiều điểm tương phản và nhiều khi rất vô lý như:  Người Trung hoa thì vẽ Genghis Khan với mắt hí, mũi tẹt, nhìn có vẻ thông thái tường tự như một tư tưởng gia của “Bách gia chi tử” thời Chiến quốc ở Trung hoa; trong khi đó người Âu châu thì vẽ Genghis Khan một người da trắng, mắt xanh, mũi cao, và tóc đỏ (?) với vẻ nhìn nửa giống một hiệp sĩ thời trung cổ nửa giống một giáo sĩ (?)  Cả hai hình ảnh Đông và Tây này không mô tả được Genghis Khan là một nhà quân sự tàn bạo (có lẽ phải xấu xí lắm!?) sẵn sàng giết hết cả đàn bà và con nít; và đồng thời tiêu hủy bất cứ vật gì cản bước tiến của mình. Có nguồn ghi là Genghis Khan giết độ 40 triệu người (khoảng 11% dân số thế giới của thế kỷ 13-  trong đó kể cả việc Genghis Khan giết hết ¾ dân số Iran và độ 10 triệu dân tàu củ cải muối? Ouch!)

 

[3]Khi đọc qua cuốn “Đông châu liệt quốc” hay “Tam Quốc Chí” chúng ta nhận ra ngay là vấn đề chỉ huy một số quân lớn đi đánh trận xa nhà thì sự thành công hoàn phần lớn tùy thuộc vào “lương thảo” (còn gọi là “quân tiếp vụ...”) Một khi các xe lương thảo (thường đi sau quân bộ) nếu bị địch quân  phục kích và phá hủy thì đại quân sẽ hoảng và loạn vì lý do đơn giản: không có thực phẩm để ăn thì lấy đâu ra sức mà đánh đấm.  Trường hợp quân Mông cổ thì hoàn toàn khác hẳn.  Mông cổ vốn dĩ là giống dân du mục, giỏi săn bắn.  Khi đi ra trận chỉ cần mang theo một ít thức ăn nhẹ, và ít gia vị.  Trên đường hành quân, quân Mông cổ chỉ uống sữa ngựa, tự túc săn bắn kiếm ăn thêm mỗi ngày (phần lớn là nướng thịt săn bắn được – Quý vị hẳn đã có dịp nếm thử “Mongolian BBQ”? Tuyệt hảo!) cho nên vấn đề “quân tiếp vụ” đối với quân Mông cổ không phải là chuyện quan trọng.  Đó là lý do tại sao kỵ kinh Mông cổ tiến nhanh như vũ bão… quân địch trở tay không kịp!

 

[4] Genghis Khan phát minh ra kỹ thuật chiến tranh mới để vượt qua kỹ thuật chiến tranh cổ điển (tức là giữ thành – Forts - với tường cao và hào sâu cho đến khi có quân tiếp viện đến từ bên ngoài; rồi trong đánh ra ngoài đánh vô) bằng cách cho binh sĩ đẩy các tháp, pháo đài di động (có gắn bánh xe) với tên lửa và thang dài đến sát bờ tường của cổ thành đang cố thủ.  Quân Mông cổ bắn ào ạt tên lửa và dùng máy phóng các bình lớn chứa dầu hỏa đang cháy (phát minh ra máy phun lửa đầu tiên!) vào trong thành.  Sau đó binh sĩ Mông cổ leo thang tràn qua mặt thành, vào thành tàn sát hết quân và dân không kể già trẻ phụ nữ con nít đã cố tình chống cự lại…

 

[5] Không phải quân Mông cổ luôn luôn vô địch.  Quân Mông cổ giỏi cỡi ngựa và bắn cung trên đất liền nhưng khi đánh trên nước (sông và biển) thì xem ra cũng xoàng thôi.  Kết quả cho thấy thủy quân Mông cổ đành chào thua quân Nhật chỉ vì Nhât bản là quần đảo cách xa đất liền.  Quân Mông cổ ra sức chèo chuyền vượt qua bão táp, đi từ lục địa Trung hoa ra đến quần đảo Nhật bản thì hoàn toàn mệt lử.  Quân Nhật chỉ thủng thẳng ngồi chơi uống trà chờ sẵn, rồi đánh tan thủy quân Mông cổ không còn manh giáp.  Ở Việt Nam ta cũng tường tự như vây.  Hoàng tử Thoát hoan (con của Đại đế Khubilai Khan – còn gọi là Hốt Tất Liệt, cháu của Genghis Khan) và tướng Toa Đô cùng đoàn quân viễn chinh Mông cổ bị Đức Trần Hưng Đạo đánh tan tành trong trận trên sông Bạch Đằng.  Ngoài việc kém về thủy quân, quân Mông cổ vốn sống ở vùng thảo nguyên khô và lạnh không quen với khi hậu nóng và ẩm của miền Đông Nam Á và Ấn độ dương.  Đó là lý do quân Mông cổ không chiếm được Nhật bản, Việt Nam và Ấn độ.  

  

Trần Văn Giang

 

 


.
.

Ý kiến bạn đọc
21/08/201619:00:04
Khách
Ôn lại quá khứ Đại Đế Thành Cát Tư Hãn cho thấy rằng " Không có dân tộc nào dở, chỉ có lãnh tụ tồi " .

Nhà văn Dương Thu Hương:” Về mặt đại cuộc, tôi thấy trong toàn thể lịch sử nước Việt, có lẽ cái triều đình Cộng sản hiện nay là cái triều đình hèn hạ và khốn nạn hơn tất cả những triều đình bán nước trước kia mà tiêu biểu là Lê Chiêu Thống”.
(Nhà văn Dương Thu Hương Có hơn 15 tác phẩm, trong đó Có 6 tác phẩm được dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Đức .

Hoàng minh Chính- nguyên Viện trưởng Viện Triết học Mác Lê- : “…quỳ gối dâng đất nước cho ngoại bang thì đấy là một trọng tội, không thể tha thứ được…“Hiện nay, việc bán đất nước là do lãnh đạo cao cấp nhất của đảng Cộng sản. Họ lợi dụng quyền khống chế của họ với quốc hội và chính phủ. Họ độc quyền mà, nên họ cứ làm bừa…” .
21/08/201600:57:13
Khách
Thánh Càt Tư Hãn là người biềt dụng binh, quân sồ chĩ cò 100000 quân nhưng khi xuầt binh kẽ địch tưỡng rằng quân cũa ông ta đông gằp 10 . Đò là nhờ những đàng ngựa , tiềng giò ngựa làm quân thù kiềp sợ. Cho nên ông ta bàch chiền bàch thằng từ À sang Âu nhưng đền đòi con Hồt Thầt Liệt cũng dùng đàng ngựa chinh phục VN nhưng bị sa lầy gì VN không cò đồng cõ, và sa mạc như ỡ Âu. Cho nên chuyện gì cũng phãi cần ( Thiên thồi, Địa lợi, Nhân hòa .)
20/08/201622:43:42
Khách
Cám ơn tác giả về bài viết Đại đế Thành Cát Tư Hãn .
20/08/201622:41:23
Khách
Lúc trước, tôi tình cờ được đọc một bài viết của một tác giả nọ, trong đó có đề cập đến chuyện Thành Cát Tư Hãn đã định diệt chủng nòi Hán, thế rồi lại bỏ đi ý định này vì lời can ngăn của một cận thần . Người Mông Cổ khinh người Hán vì nòi Hán chuyên về nghề nông .

Thật đáng tiếc !
20/08/201614:41:20
Khách
TVG xin phép được sửa lại cho đúng vài chi tiết địa lý của bài chủ:
- Tân Cương nằm phía Tây của Trung hoa (chứ không phải phía Đông).
- Mãn Châu nằm phía Đông Trung hoa (chứ không phải phía Tây).
Sở dĩ có sự lầm lẫn tréo cẳng ngỗng như vậy vì khi viết tôi chỉ dùng trí nhớ chứ không "check" với bản đồ thế giới.
Thành thật xin lỗi.
Thân mến,
Trần Văn Giang
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.