Hôm nay,  

Cảng Cam Ranh

01/09/201600:46:00(Xem: 9978)

CẢNG CAM RANH



  1. TỔNG QUÁT

  2. VAI TRÒ CỦA HOA KỲ (1965-1972)

  • VAI TRÒ CỦA HẢI QUÂN HOA KỲ

  • KHÔNG QUÂN HOA KỲ TẠI CAM RANH

  • HẢI QUÂN HOA KỲ TẠI CAM RANH

  1. VAI TRÒ CỦA NGA SÔ (1978-2002)

  2. VAI TRÒ CỦA VIỆT NAM (2004-HIỆN NAY)

    • PHI TRƯỜNG QUỐC TẾ CAM RANH

    • CĂN CỨ HẢI QUÂN CAM RANH

    • CẢNG QUỐC TẾ CAM RANH

  3. KỀT LUẬN


  1. TỔNG QUÁT


Trong vùng Đông Nam Á có 2 vịnh: Vịnh Cam Ranh của Việt Nam và vịnh Subic của Philippines. Vịnh Cam Ranh của Việt Nam là một trong 5 vịnh tốt nhất thế giới.


	Địa hình Cam Ranh với bán đảo Cam Ranh che kín gần như toàn bộ vịnh tạo ra vùng nước lặng gần như tuyệt đối


Vịnh Cam Ranh nhìn từ vệ tinh


SO SÁNH VỊNH CAM RANH VÀ VỊNH SUBIC

Hai vịnh có những điểm khác nhau: Trước hết Subic là một vịnh nằm ở đảo quốc chứ không phải như Cam Ranh nằm ở rìa một lục địa. Với Cam Ranh thì điều này cho phép việc bố trí lực lượng, tiếp tế, bảo vệ cho căn cứ có thể kéo sâu trong lục địa. Còn vịnh Subic thì luôn phải đề phòng sự phong tỏa của lực lượng Hải quân đối phương. Do vậy xung quanh bốn mặt đảo luôn phải duy trì được một vành đai an toàn. Bên cạnh đó việc bố trí các lực lượng khác như lục quân, không quân tạo thành một căn cứ liên hoàn trên đảo cũng gặp nhiều bất lợi hơn so với Cam Ranh. Ngoài ra, cần lưu ý đến yếu tố thời tiết. Đảo Luzon của Philippines là "rốn bão" của biển Đông nên điều kiện thủy văn không hoàn toàn thực sự lý tưởng cho hoạt động của lực lượng tàu chiến trong mọi thời điểm. Đặc biệt hơn là đối với lực lượng không quân thì yếu tố thời tiết càng ảnh hưởng mạnh. Về địa hình, Cam Ranh được bán đảo Cam Ranh gần như che kín vịnh, đảm bảo vùng nước gần như lặng tuyệt đối, cũng như che chắn khỏi sự đe dọa hỏa lực và các thiết bị trinh sát của đối phương. Vịnh Subic không được che chắn kín như vịnh Cam Ranh.

crbentrance.jpg (92458 bytes)


Lối đi vào Cam Ranh từ hướng Nam. Hai đảo nối liền nhau là đảo Bình Ba.


Về địa hình, vịnh Cam Ranh có diện tích gần 60 km². Chỗ hẹp nhất khoảng 10 km, rộng nhất 20 km, độ sâu trung bình từ 18-20 m. Vịnh gần như khép kín bởi bán đảo Cam Ranh từ phía Bắc chạy phủ kín cả phía Đông, phía Tây, rất kín gió, không bị phù sa bồi đắp, thuận tiện cho việc phòng thủ. Phía Nam vịnh là đất liền, chỉ mở ra một cửa lớn - được ví như một cánh tay ôm lấy vịnh, tạo thành một vành đai nên mặt nước, có khả năng đón nhận nhiều hạm đội một lúc, nhiều tàu chiến, tàu ngầm và các tàu có trọng tải trên 100,000 tấn có thể ra vào dễ dàng bất cứ lúc nào trong năm. Ngoài ra, vịnh Cam Ranh chỉ cách tuyến hàng hải quốc tế chỉ 20-30 hải lý. Những điều đó làm cho cảng Cam Ranh trở thành một hải cảng chiến lược quan trọng, nhất là nó nằm không xa quần đảo Trường Sa nơi có nhiều tranh chấp lảnh hải với Trung Quốc.


'Cam Ranh' thứ hai ở biển Đông khiến Trung Quốc run sợ (Kỳ 3)

Trong khi đó, vịnh Subic ăn sâu vào đường bờ phía Tây Nam đảo Luzon của Philippines theo trục Bắc-Nam khoảng 8 hải lý (15 km) và có chiều rộng khoảng 3.5 hải lí (6.5 km). Về phía biển, vịnh được giới hạn bởi mũi Sampaloc và mũi Mayagao cách nhau gần 6 hải lý (11 km) theo trục Bắc Đông Bắc-Nam Tây Nam. Đường bờ biển phía Tây của vịnh tương đối thẳng, định hình rõ với địa hình cao ở phía sau trong khi đường bờ phía Đông thì thấp. Subic là một cảng nước sâu được nhiều ngọn núi có rừng nhiệt đới che chở. Độ sâu của vịnh giảm dần từ 60 m (cửa vịnh) đến 13.7 m (gần đầu vịnh). Ngày 14 tháng 3 năm 1947, Thỏa ước Căn cứ Quân sự được ký kết cho phép Hoa Kỳ mướn 16 căn cứ và khu vực dành cho quân sự bao gồm Vịnh Subic cũng như việc quản trị thị trấn Olongapo một khoảng thời gian là 99 năm. Vịnh Subic đã được Hoa Kỳ phát triển thành 1 quân cảng hiện đại của thế giới. Năm 1992, Hoa Kỳ trả lại Subic Bay cho chính phủ Philippines. Sau hơn 20 năm rời khỏi khu vực, Hải quân Mỹ năm 2015 đã trở lại căn cứ quân sự ở vịnh Subic trong bối cảnh căng thẳng gia tăng với Trung Quốc. Tổng thống mới đắc cử Rodrigo Duterte của Philippines đang để lộ khuynh hướng độc lập hơn với Hoa Kỳ nhưng hy vọng không có thay đổi lớn trong quan hệ chiến lược giữa hai nước.

blank

Không ảnh Căn cứ Hải quân Hoa Kỳ tại vịnh Subic (phải) và Căn cứ Hải-Không quân, mũi Cubi (trái)

  1. VAI TRÒ CỦA HOA KỲ (1965-1972)


Trong khoảng 8 năm đóng quân ở đây, Mỹ đã chi hàng trăm triệu USD để xây dựng Cam Ranh thành căn cứ quân sự và hậu cần cho lực lượng Hải-Lục-Không quân Hoa Kỳ tại Việt Nam.


VAI TRÒ CỦA HẢI QUÂN HOA KỲ


blank


Hải quân Hoa Kỳ đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc chiến Việt Nam và có những những hoạt động chỉ mới giải mật trong thời gian gần đây. Khu vực hoạt động của Hải quân Hoa Kỳ trải dài từ vịnh Bắc Việt qua đảo Hải Nam, xuống Hoàng Sa và Trường Sa với Đệ Thất Hạm Đội đặt Bộ chỉ huy tại Subic Bay, Market Time đặt Bộ chỉ huy tại Cam Ranh và Các cuộc hành quân ngoại lệ với Bộ chỉ huy tại Đà Nẵng. Đệ Thất Hạm Đội trách nhiệm khu vực ngoài lãnh hải 12 hải lý từ bờ biển Việt Nam với Yankee Station nằm giữa bờ biển Bắc Việt và đảo Hải Nam. Đệ Thất Hạm Đội không thể vào sát bờ biển miền Bắc vì trọng pháo phòng duyên của Bắc Việt rất mạnh. Khu vực phía Nam vĩ tuyến 17 là chiến dịch Market Time do Hải quân Hoa Kỳ và VNCH chịu trách nhiệm. Phía Bắc vĩ tuyến 17 dọc theo duyên hải Bắc Việt là những hoạt động ngoại lệ chỉ mới được giải mật trong thời gian gần đây với hai cơ quan CSS (Coastal Security Service: Sở Phòng vệ Duyên hải) của HQ/VNCH và NAD (Naval Advisory Detachment) của Hải quân Hoa Kỳ điều hành. Hoạt động xâm nhập bờ biển Bắc Việt đầu tiên do CIA điều hành vào đầu 1960 với các ghe Nautilus, sau đó là các chiến đỉnh Swift (PCF). Đến 1964 thì chiến tranh mở rộng, CIA không còn khả năng điều hành nên giao lại cho Bộ Tư lệnh Quân lực Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương nhưng quyền điều hành thực sự vẫn còn thuộc Section 302 của tòa Bạch Ốc và Ngũ Giác Đài cho đến 1965 mới chính thức bàn giao. Điều cần để ý là Bộ Tư lệnh Quân lực Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương (Pacific Command) và  Bộ Tư lệnh Hải Quân Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương (Pacific Fleet) đều do 2 đô đốc 4 sao của hải quân Hoa Kỳ chỉ huy. CSS/NAD là một tổ chức hỗn hợp giữa Hải quân Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa. Hải quân Việt Nam cung cấp thủy thủ đoàn và điều hành các PTF còn NAD trách nhiệm về thiết kế hành quân và yểm trợ. Về giấy tờ thì Sở Phòng vệ Duyên hải trực thuộc Nha Kỹ Thuật - BTTM nhưng trên thực tế thì CSS/NAD chẳng liên lạc gì với BTTM và ngay cả MACV. Các hoạt động và ngay cả huy chương Hoa Kỳ của họ đều do Bộ Tư lệnh Hải quân Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương cấp. Các nhân viên QL/VNCH tăng phái ra CSS đều mang căn cước mới và không được liệt vào hồ sơ quân bạ trong giai đoạn tăng phái. Trong thập niên 1960 thì hải quân Hoa Kỳ không còn các khinh tốc đỉnh nên phải mua của hải quân Na Uy. Hải quân Na Uy đóng 48 chiếc, bàn giao cho hải quân Hoa Kỳ 24 chiếc chuyển cho thủy thủ đoàn Việt Nam sử dụng. Các khinh tốc đỉnh PTF là các chiến đỉnh tối tân nhất thế giới vào thời đó với vận tốc tối đa 55 gút và là các chiến đỉnh đầu tiên thiết kế trên máy vi tính. Các chiến đỉnh của Bắc Việt trong thời gian này chỉ có tốc độ tối đa khoảng 35 gút.


blank


PTF trong vị trí chiến đấu


CSS/NAD chấm dứt hoạt động khi Hoa Kỳ quyết định ngưng oanh tạc Bắc Việt năm 1969 nhưng thỉnh thoảng vẫn còn vài chuyến xâm nhập cho đến 1972, Hoa Kỳ mới chuyển các PTF về lại Subic Bay.


KHÔNG QUÂN HOA KỲ TẠI CAM RANH


Từ  đầu năm 1965, đoàn Công binh Hải quân Hoa Kỳ  bắt đầu xây sân bay Cam Ranh cùng với các nhà  thầu dân sự và chuyển giao cho Không quân Hoa Kỳ vào cuối năm. Sân bay Cam Ranh do quân đội Hoa Kỳ xây dựng là căn cứ không quân lớn nhất,    cung cấp tiếp liệu cho Hải-Lục-Không quân và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ. Lúc đó, căn cứ không quân của Mỹ ở vịnh Cam Ranh bao gồm hai sân bay cho máy bay phản lực và một sân bay cho máy bay trực thăng, mỗi sân bay có sức chứa hơn 100 máy bay. Người Mỹ còn tiến hành khoét núi Cam Ranh, xây dựng kho chứa máy bay trong lòng núi, nâng cấp đường băng lớn có thể cho máy bay ném bom chiến lược B-52 cất và hạ cánh. Vào lúc cao điểm của cuộc chiến, sân bay quân sự Cam Ranh có tần suất hạ cánh và cất cánh cao nhất thế giới.


Cam Ranh - Aerial View


Ảnh chụp phi trường Cam Ranh do Hoa Kỳ xây trong khoảng 1965-1970 nhìn từ Biển Đông. Hai đừng băng 3,000 thước nằm giữa bức hình.  Đường băng phía Tây được đổ bê tông trong khi đường băng phía Đông được lót bằng vỹ nhôm.


Sân bay Cam Ranh được sử dụng như căn cứ chính được các đơn vị chuyển vận chiến lược Military Air Transport Service/Military Airlift Command từ Hoa Kỳ chuyển đến Nam Việt Nam rồi từ đó được Không đoàn chuyển vận chiến thuật số 483 th dùng các phi cơ chuyển vận loại C-7 Caribou và C-130 Hercules đưa đến các phi trường khác khắp miền Nam. Đơn vị Không quân trú đóng tại Cam Ranh đầu tiên là Không đoàn Chiến thuật số 12 trang bị với các chiến đấu cơ F-4C Phantom II được di chuyển từ căn cứ không quân MacDill, Florida. Không đoàn này tham dự các cuộc oanh tạc ở miền Bắc, Lào cũng như miền Nam với 4 phi đoàn 557th, 558th, 43th và 391st. Từ năm 1970, trong kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh, không đoàn này được chuyển về lại Hoa Kỳ. Hai sư đoàn chuyển vận không quân số 315 th và 834 th trang bị C-130 và C-123 thường xuyên bay từ Nhật Bản và Okinawa bay đến Cam Ranh cũng như tham gia các chiến dịch tại Khe Sanh, A Lưới, A Shau và Khâm Đức v.v.. Trực thuộc sư đoàn 834 th là  không đoàn 483 th trang bị phi cơ vận tải Caribou C-7A rất hữu hiệu trong việc yễm trợ các đơn vị của lực lượng đặc biệt tại Tây Nguyên. Trong chiến tranh Việt Nam, phi trường tại Cam Ranh cùng với các phi trường tại Okinawa, Nhật Bản và phi trường Clark Field tại Philippines lập thành một mạng lưới tiếp vận hữu hiệu cho quân lực Hoa Kỳ.


HẢI QUÂN HOA KỲ TẠI CAM RANH

Quân cảng Cam Ranh là một cảng quân sự lớn nằm ở phía Nam bán đảo Cam Ranh. Đây từng căn cứ phức hợp quan trọng của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam. Năm 1964, các phi cơ thám thính, tàu yểm trợ thủy phi cơ Currituck AV-7 và đơn vị dò mìn Mine Flotilla 1 bắt đầu các công tác thủy văn và giám sát bờ biển để bắt đầu việc xây dựng các cơ sở bờ. Năm 1965, sau khi một tàu tiếp liệu của Bắc Việt bị khám phá tại Vũng Rô thì cảng Cam Ranh bắt đầu được xây dựng cho Lực lượng Thám sát Bờ biển (Coastal Surveillance Force). Trong những năm sau đó, Hải quân Hoa Kỳ bắt đầu điều động các tàu tuần tra loại nhỏ PG và PCF đến Cam Ranh. Tháng 4/1967, căn cứ Hải-Không quân Cam Ranh (U.S. Naval Air Facility, Cam Ranh Bay) được thành lập với các phi cơ P-2 Neptune và P-3 Orion. Mùa Hè 67, Bộ chỉ  huy Lực lượng Thám sát Bờ biển dời từ Sài Gòn ra Cam Ranh để chỉ huy chiến dịch Market Time. Trung tâm Truyền tin Hải quân (Naval Communications Station) cũng được thành lập. Trong lúc các căn cứ bờ được thành lập, 2 tàu tiếp liệu Mark (AKL-12) và Brule (AKL-28) vẫn chở đồ tiếp liệu từ Subic Bay, Philippines và tàu APL-15 vẫ đảm trách vấn đề trú ngụ cho nhân viên. Các cầu ponton được hoàn tất cho các tàu tuần tiểu. Căn cứ Yểm trợ Hải quân Cam Ranh được thành lập năm 1967 để yểm trợ cho chiến dịch Market Time cũng như các hoạt động trong vùng sông Cửu Long. Bắt đầu năm 1972, trong kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh, một số cơ sở chuywển giao lại cho VNCH hay chuyển về Sài Gòn, chấm dứt 7 năm hoạt động của Hải quân Hoa Kỳ tại Cam Ranh.

blank


Quân cảng Cam Ranh trong cuộc chiến Việt Nam


Nếu phân tích kỹ thì sự hiện diện của Hoa Kỳ tại Cam Ranh chỉ có tính cách ngắn hạn khi xây phi trường, hải cảng, doanh trại của Hoa Kỳ trong giai đoạn này: một đường bay của phi trường Cam Ranh lót bằng vĩ nhôm, các cầu tàu bằng ponton, doanh trại hoàn toàn xây bằng gổ. Vấn đề xây dựng tạm thời một phần vì nhu cầu khẩn cấp của chiến tranh và có lẻ các chiến lược gia tiên đoán trước Hoa Kỳ sẽ không ở lâu tại Việt Nam. Năm 1973, sau Hiệp Định Paris, Hoa Kỳ trao các căn cứ này lại cho Hải - Không Quân Việt Nam Cộng Hòa trước khi Việt Nam được thống nhất năm 1975.


  1. VAI TRÒ CỦA NGA SÔ (1978-2002)

Sau khi hai miền Bắc Nam thống nhất thì cảng Cam Ranh được dùng làm căn cứ hải quân quan trọng của Hạm đội Thái Bình Dương của Liên Xô trong bối cảnh Chiến tranh lạnh giữa khối Liên XôHoa Kỳ và tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam. Nga Sô là chổ dựa của Việt Nam trong giai đoạn này. Chính phủ Xô viết chính thức ký năm 1978 một thỏa thuận với Việt Nam để thuê hải cảng này trong thời gian 25 năm. Cuối thập niên 1980, Liên Xô tan vỡ; chính phủ Nga nhận kế thừa hợp đồng đó cho tới năm 1993. Một hiệp định mới cho phép Nga tiếp tục có mặt tại Cam Ranh nhưng chủ đích căn cứ này chuyển sang làm nơi thám thính, theo dõi hoạt động của Trung Quốc còn các chiến cụ và quân nhân được rút về Nga. Còn lại là nhân viên kỹ thuật tình báo. Tháng 2/1984, theo đề nghị của phía Việt Nam, Chính phủ Sô Viết đã quyết định khôi phục và xây dựng thêm một loạt công trình tại căn cứ Cam Ranh. Việc xây dựng Cam Ranh bước sang một giai đoạn mới, chuyển từ hình thức tự hạch toán kinh tế sang hình thức đấu thầu khoán gọn, bắt đầu giai đoạn xây dựng kiên cố thay cho các kết cấu lắp ghép tạm thời. Trong cuộc điều đình kéo dài thời hạn thuê quân cảng Cam Ranh thì Việt Nam đòi Nga phải trả tiền thuê hằng năm là 200 triệu Mỹ kim. Chính phủ Nga không chịu điều khoản này nên ngày 2 tháng 5 năm 2002, lá cờ Nga được hạ xuống lần cuối cùng tại căn cứ Cam Ranh.

Cuối năm 1978, nhóm sĩ quan đại diện cho các tổng cục của Bộ Tư lệnh Hải quân và của Hạm đội Thái Bình Dương đáp máy bay sang Việt Nam để ngày 30/12 đã thỏa thuận xong và ký biên bản ghi nhớ làm cơ sở đàm phán xây dựng và cùng khai thác Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật.

Cuối năm 1978, Liên Xô đã ký thỏa thuận với Việt Nam về việc xây dựng và cùng khai thác Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật tại Cam Ranh. Theo đó, quân cảng này là nơi tiếp nhận tàu chiến, tàu ngầm, tàu hộ tống cùng nhiều máy bay trinh sát, vận tải và máy bay mang tên lửa của Hải đoàn tác chiến cơ động số 17 thuộc Hạm đội Thái Bình Dương.

blank

Ngày 4/5/2002 - ngày cuối cho sự hiện diện quân sự của Nga tại Việt Nam - các quân nhân, chuyên gia Nga rời PMTO 922 trên ôtô trong tiếng nhạc bài "Các sĩ quan". Còn các chiến sĩ Vùng 4 Hải quân Việt Nam đứng nghiêm trên cầu cảng để tiễn những người bạn Nga. Trên boong "Sakhalin-09", Chuẩn đô đốc Eryomin, chỉ huy trưởng cuối cùng của căn cứ giơ tay chào những người đồng đội Hải quân Việt Nam.

Trong thời gian gần đây, báo chí Nga-Việt nói nhiều về sự trở lại Cam Ranh của Nga Sô. Năm 2014, Bộ Quốc phòng Nga còn đưa ra thông báo cho biết các máy bay ném bom tầm xa và máy bay tiếp dầu Nga bắt đầu thường xuyên hạ cánh tại các sân bay nước ngoài; trong đó, lần đầu tiên máy bay tiếp dầu của nước này sử dụng sân bay Cam Ranh của Việt Nam. Vào tháng 3/2015, Mỹ mạnh mẽ yêu cầu Việt Nam “không cho Nga sử dụng căn cứ tại vịnh Cam Ranh”. Tình trạng kinh tế của Nga cũng là một yếu tố. Với thế chiến lược giữa Việt Nam và Trung Quốc-Hoa Kỳ-Nga Sô, việc sử dụng phi trường và cảng Quốc tế Cam Ranh sẽ là một sự cân bằng chiến lược.

  1. VAI TRÒ CỦA VIỆT NAM (2004-HIỆN NAY)

Sau 2002, Việt Nam có dự định phát triển Cam Ranh này với mục đích lưỡng dụng quân-dân sự, tương tự như chính phủ Philippines đã làm với căn cứ hải quân Subic Bay và căn cứ không quân Clark Field do Mỹ bàn giao. Cách đây khá lâu, đã có nguồn tin loan báo chính phủ Nhật Bản đã có đề nghị Việt Nam biến Cam Ranh thành 1 thành phố 3-4 triệu dân và cảng Cam Ranh thành một hải cảng lớn nhất Đông Nam Á.

PHI TRƯỜNG QUỐC TẾ CAM RANH

Ngày 19 tháng 5 năm 2004, sân bay Cam Ranh trở thành phi trường dân sự đầu tiên thay thế cho sân bay Nha Trang nằm trong nội thị thành phố bị hạn chế về diện tích và vì lý do an toàn. Ngày 16 tháng 8 năm 2007, Văn phòng chính phủ ra quyết định nâng cấp cảng hàng không Cam Ranh trở thành cảng hàng không Quốc tế. Tháng 12 năm 2009, bằng việc đưa vào sử dụng nhà ga hàng không mới, hiện đại, quy mô lớn bậc nhất miền Trung, sân bay Cam Ranh chính thức trở thành Cảng hàng không quốc tế thứ 3 của khu vực này. Năm 2015, UBND tỉnh Khánh Hòa tổ chức lễ khởi công xây dựng đường băng số 2, sân bay quốc tế Cam Ranh. Đường băng dài 3,048 m, rộng 45 m, đạt tiêu chuẩn Cảng hàng không cấp 4E, tức là có thể tiếp nhận các loại máy bay chở khách cỡ lớn trên thế giới. Dự kiến đường băng số 2 sẽ được đưa vào sử dụng vào năm 2018. Nhà ga quốc tế sân bay Cam Ranh được xây dựng mới sẽ là một sân bay lưỡng dụng có công suất 4 triệu khách đến năm 2025.

Image result for Phi trường Cam Ranh


Vị trí cảng hàng không Cam Ranh
.

CĂN CỨ HẢI QUÂN CAM RANH

Hiện nay, Căn cứ Hải quân Cam Ranh đặt bộ chỉ huy của Vùng 4 Hải quân là vùng trách nhiệm quan trọng nhất của Hải quân Việt Nam, quản lý quần đảo Trường Sa, đảo Phú Quý và vùng biển phía nam miền Trung từ Phú Yên đến Bắc Bình Thuận gồm các tỉnh: Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và phía Bắc của Bình Thuận. Yễm trợ cho Vùng 4 Hải Quân gồm có: Lữ đoàn 147 (Hải quân đánh bộ), Lữ đoàn 146 (Công Binh Hải quân), Lữ đoàn 162 (Tàu hộ vệ tên lửa: HQ 375 - HQ 376 - HQ 011 - HQ 012), Lữ đoàn 189 (Tàu ngầm: HQ 182 - HQ 183 - HQ 184 - HQ 185 - HQ 186 - HQ 187), Lữ đoàn 954 (Hải-Không quân), Lữ đoàn 681 (Tên lửa bờ) và Trung đoàn Radar 451. Lữ đoàn 125 (Vận tải biển) đồn trú tại Cát Lái. Lữ đoàn 682 (Tên lửa bờ mới nhất) đồn trú tại Phú Yên. Ngoài ra, tại phi trường Biên Hòa có Trung đoàn Tiêm kích 935 Su-30MK2V, Trung đoàn trực thăng 917 trực thuộc Sư đoàn 370 cũng có trách nhiệm bảo vệ Trường Sa. Lực lượng Hải quân tại Vùng 4 Hải Quân đang được tăng cường trong các năm vừa qua nhưng để có thể hoàn tất nhiệm vụ của mình thì phải cần có thêm 6-8 tàu hộ vệ tên lửa cỡ 3,000 tấn, khoảng 4-6 máy bay săn ngầm loại P3C Orion hay tốt hơn cũng như các máy bay chỉ huy, tác chiến điện tử và yểm trợ khác.

Vai tro chien luoc cua Cam Ranh khi Bien Dong cang thang hinh anh 2


Hình ảnh mới nhất của căn cứ Hải quân tại Cam Ranh 2016


CẢNG QUỐC TẾ CAM RANH

Cảng Quốc tế Cam Ranh, nằm về  phía Nam của khu vực quân sự của cảng Cam Ranh, là cảng dịch vụ tổng hợp, đảm bảo phục vụ các lực lượng và cung cấp các dịch vụ hàng hải cho các tàu dân sự, quân sự của các quốc gia trên thế giới... Cảng Quốc tế Cam Ranh khánh thành và đi vào hoạt động sẽ góp phần quan trọng trong việc khai thác có hiệu quả những tiềm năng và lợi thế của Vịnh Cam Ranh; không chỉ có vai trò quan trọng với quốc phòng - an ninh, mà còn có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, du lịch của khu vực nam Trung bộ ... Theo thông tin từ báo chí Việt Nam thì cảng biển Cam Ranh sẽ là một trong nhũng hải cảng lớn nhất Việt Nam có thể cho phép hàng không mẫu hạm trọng tải 100,000 tấn cập bến trong mọi điều kiện. Bằng việc cho tàu của tất cả các nước cập Cảng Quốc tế Cam Ranh, Việt Nam một mặt đã khẳng định chủ quyền của mình mặt khác đã đổi mới cách tiếp cận đa phương hóa trong việc sử dụng cảng Quốc tế Cam Ranh và bảo vệ quyền tự do hàng hải trên Biển Đông. Tương lai cảng Quốc tế Cam Ranh sẽ trở thành trung tâm cảng dịch vụ hàng hải, nghỉ dưỡng, hậu cần, kỹ thuật chất lượng cao trong khu vực.

Giai đoạn I của dự án Cảng Quốc tế Cam Ranh được phê chuẩn từ tháng 9/2014, khởi công ngày 23/2/2015. Đây là dự án do Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Tân Cảng-Petro Cam Ranh (TCP Cam Ranh) thực hiện. Công ty này có tổng vốn đầu tư là 2,000 tỷ đồng (khoảng 90 triệu USD), trong đó Tổng công ty Tân cảng Sài Gòn (SNP) góp 1,500 tỷ (chiếm 75%) và Tập đoàn dầu khí Việt Nam góp 500 tỷ (chiếm 25%). Cơ sở tàu ngầm của Việt Nam cũng được đặt bên cạnh cảng này. Hơn 1 năm thi công, toàn bộ các hạng mục công trình thủy cùng các công trình bờ của Cảng Quốc tế Cam Ranh đã được khánh thành ngày 8/3/2016. Cảng có chiều dài cầu giai đoạn I là 640 m, độ sâu 20 m; bãi tập kết hàng hóa 26,000 m² … nằm trong dự án 130 ha, gồm 3 khu: dịch vụ hàng hải và cung ứng tàu biển; khu đóng và sửa chữa tàu biển; khu đóng và sửa chữa công trình dầu khí ... với số vốn lên đến 2,000 tỉ đồng. Báo chí trong nước có những tường thuật không rỏ ràng về chiều dài cầu tàu trong giai đoạn I. Các hình ảnh ở dưới hy vọng phản ảnh chính xác chiều dài thật sự của cầu tàu.


blank


Phóng đồ chiều dài cầu tàu cảng Quốc tế giai đoạn I


blank


Chiến hạm Pháp Tonnerre, trọng tải 21,500 tấn, chiều dài 199 m, cặp cầu cảng giai đoạn I tại Cam Ranh


Cang quoc te Cam Ranh co the don tau san bay den 110.000 tan hinh anh 2


3 chiến hạm Việt Nam cặp cầu cảng giai đoạn I tại Cam Ranh


Dù rằng chi tiết về Giai đoạn II khi hoàn thành chưa được tiết lộ nhưng báo chí ngoại quốc cho biết sẽ có cầu cảng dài khoảng 2,000 m, có thể tiếp nhận 18 tàu dân sự và quân sự cùng lúc và 185 tàu mỗi năm kể cả Hàng không mẫu hạm và tàu ngầm, tải trọng tàu có thể tới 110, 000 DWT. Các cơ sở sửa chửa, nhà kho, trung tâm triển lãm cũng được dự trù. Không hiểu đây là cầu cảng mới hay là cầu cảng giai đoạn I nối dài.  Mặc dù không có xác nhận chính thức về ngày hoàn tất nhưng chính quyền Việt Nam luôn luôn nhấn mạnh khía cạnh thương mãi của dự án để trở thành khuôn mẫu của một cảng lớn trong tương lai. Ngân khoản $89.7 triệu USD như báo chí Việt Nam loan báo có thể không phản ảnh đúng nhu cầu thực sự của dự án.


  1. KỀT LUẬN

Việt Nam cố gắng giữ quan hệ cân bằng đối với mọi cường quốc trong vùng. Trung Quốc vẫn là đối tác thương mại lớn nhất và cũng là nước gây nhiều hệ lụy cho Việt Nam từ vấn đề Biển Đông, quân sự, nguồn nước, ô nhiễm môi trường, chiến tranh mạng v.v.. Nga là nước cung cấp vũ khí lớn nhất. Hoa Kỳ là nước quan trọng nhất về liên hệ kinh tế và có thể cung cấp một số vũ khí mà Nga không có. Nhật Bản là nước đầu tư lớn nhất và trong tương lai sẽ giúp cho Việt Nam trong lãnh vực quân sự. Ấn Độ lại là “nước ủng hộ về chính trị, quân sự” kiên định của Việt Nam. Ngoài ra còn phải kể Liên Âu do Pháp dẫn đầu và Úc Đại Lợi trong nỗ lực tuần tiểu tại Biển Đông. Do Thái đã cung cấp khá nhiều hệ thống phòng thủ cho Việt Nam. Yếu tố quan trọng nhất là giá cả trong một giới hạn mà các nước Đông Nam Á có thể chịu đựng được. Dù sao, các vũ khí của Nga tiên tiến ngang hàng với Tây phương mà giá cả chỉ bằng 2/3.

Không nên đòi hỏi Việt Nam nghiêng về một bên nào quá nhiều trong nỗ lực bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và lãnh hải của mình. Chiến lược của Việt Nam là muốn có càng nhiều lực lượng ngoài khu vực can dự vào để tạo một thế cân bằng với Trung Quốc. Trục Changi của Singapore-Cam Ranh của Việt Nam-Subic Bay của Philippines sẽ là tam giác chiến lược bảo đảm sự tự do hàng hải của tuyến đường vận chuyển thương mại quốc tế có trị giá đến 5,000 tỷ USD từ eo biển Malacca lên Đài Loan đến các quốc gia Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc và ngay cả Nga Sô.


blank


THAM KHẢO


  1. Cam Ranh Base - From Wikipedia, the free encyclopedia

  2. Vietnam Unveils New Port Facility For Foreign Warships in Cam Ranh Bay – The Displomat - March 10, 2016.


*****

Đọc các bài viết của tác giả, quý vị có thể vào Google, đánh “Nguyễn Mạnh Trí”, rồi vào:

Nguyễn Mạnh Trí - Các bài viết - Vietbao
https://vietbao.com/author/post ..../1/nguyenmanhtri

và lựa chọn bài viết muốn đọc - Hiện đã có 68 bài.



Nguyễn Mạnh Trí
Tu chỉnh: 1 tháng 9 năm 2016

..

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.