Hôm nay,  

Tháng Tám, 41 năm sau

08/09/201600:01:00(Xem: 6900)
Tháng Tám, 41 năm sau
 
Bùi Văn Phú

 

Ngày 30/4/1975 đánh dấu một khúc rẽ cho lịch sử Việt Nam, cho tương lai của nhiều gia đình người Việt. Lịch sử của chia lìa, kéo theo sau là đau thương của học tập cải tạo, bỏ thây trên biển, trong rừng sâu. Với nhiều gia đình, nỗi đau giờ đây dù đã nguôi ngoai nhưng chia lìa còn kéo dài. Trong đó có gia đình tôi.

 

Khi mới qua Mỹ, nhiều lúc nhớ gia đình, bạn bè và quê hương quá đỗi nên tôi đã tự hỏi việc ra đi của mình có đáng hay không khi đất nước đã thống nhất, hết chiến tranh và tôi cùng nhiều bạn đã từng ôm ấp lý tưởng xây dựng quốc gia, thế tại sao mình lại bỏ nước ra đi.

 

Thỉnh thoảng đọc báo Thái Bình của Hội Việt kiều Yêu nước tại Mỹ lại thấy có những lời lẽ chửi rủa người bỏ nước ra đi là chạy theo đế quốc, vì “tham bơ thừa sữa cặn”, vì không quen sống cực khổ, vì bị ép buộc phải rời quê hương.

 

Đó có phải là sự thực? Tôi có nghe đến con tàu Việt Nam Thương Tín chở 1500 người tị nạn hồi hương vào tháng 10/1975 và đã về đến Việt Nam, để rồi những người hồi hương bị đưa thẳng vào trại giam mà không được gặp mặt đoàn tụ với gia đình như ý nguyện mong muốn khi trở về.

 

Khi đến Guam tôi có ở chung lều với nhạc sĩ Trường Sa, ông nói là đang chờ để được hồi hương vì là sĩ quan hải quân nên theo chiến hạm rời quê hương, bỏ lại vợ con.

 

Sau ba tháng ở trại tị nạn, tôi được định cư ở thành phố Đại học Berkeley. Một thời gian sau đọc trên báo Thái Bình thấy lá thư của một người ký tên Trường Sa, viết từ Guam, kể tội Hoa Kỳ đã âm mưu di tản tài sản quốc gia ra nước ngoài gồm thuyền bè, máy bay; tuyên truyền để đưa ra khỏi nước thành phần trí thức gồm bác sĩ, kỹ sư, giáo sư đại học, luật sư v.v... để cho đất nước sau chiến tranh không còn gì. Tôi tự hỏi có phải người viết lá thư đó cũng là nhạc sĩ Trường Sa mà tôi ở chung lều trong một tuần ở Guam.

 

Dần dần thông tin từ quê nhà được chuyển ra nước ngoài. Thầy tôi là hạ sĩ quan nên học tập tại địa phương, nhưng nhiều chú, bác, người quen, hàng xóm là những sĩ quan đã phải đi học tập nhiều tháng mà chưa thấy về. Bạn bè cũ thời sinh viên phải bỏ học và nhiều người cũng vượt biển tìm tự do.

 

Với làn sóng vượt biển, nhiều người được Hoa Kỳ nhận cho định cư. Gặp lại một số người quen, tôi biết tin có một chị ở gần nhà được di tản năm 1975 và sau đó đã trở về trên con tàu Việt Nam Thương Tín, bị giam một thời gian rồi cho về. Hàng xóm láng giềng cho chị là người thiếu suy nghĩ mới xin hồi hương.

 

Sau này, vào thập niên 1990 tại Quận Cam tôi cũng đã có dịp gặp cựu Thiếu tá Hải quân Trần Cao Khải, cơ khí trưởng đã cùng cựu Trung tá Trần Đình Trụ đưa con tàu chở người hồi hương. Ông cho biết quyết định trở về của ông hoàn toàn vì tình cảm gia đình.

 

Tình cảm đối với gia đình trong những năm tôi sống xa nhà lúc nào cũng ngập tràn. Năm 1985 tôi có dịp đến Bangkok, cũng muốn về thăm quê nhà nhưng u tôi nhiều lần viết thư khuyên đừng nên về. Tôi có đến sứ quán Việt Nam ở đây hỏi thăm và được biết đơn xin visa phải chuyển về Hà Nội để được chấp thuận và có thể phải chờ ba tháng. Tôi không chờ lâu như thế được nên bỏ ý định về thăm gia đình, quê hương lúc đó, dù rằng sau 10 năm từ ngày rời bỏ quê hương ra đi, tôi đã đi giáp một vòng trái đất, qua nhiều quốc gia mà chưa có dịp trở lại quê nhà.

 

Những năm đầu thập niên 1980 các em tôi cũng tìm đường rời quê hương. Cô em gái kế nhiều lần đưa hai con vượt biển để mong gặp lại chồng nhưng không thành. Chồng của em là thuyền nhân, qua Mỹ định cư ở tiểu bang Ohio từ năm 1979.

 

Một em trai, mà thầy u tôi không muốn em đi bộ đội, nên cũng đã lo tìm đường cho em ra đi. Tôi gửi tiền về, nhưng em đi mấy lần không lọt, bị bắt giam nên tôi lại lo gửi tiền về để chạy chọt cho em được thả. Rồi em bị bắt đi bộ đội theo chỉ tiêu của phường.

 

Cùng thời gian các em tính chuyện vượt biên, năm 1982 tôi nhập tịch Mỹ và tiến hành hồ sơ đoàn tụ cho thầy u tôi và ba người em nhỏ nhất trong nhà, chưa đến 21 tuổi, gồm hai em trai và một em gái. Ba người em gái lớn, đã trên 21 tuổi và có gia đình nên tôi không làm hồ sơ vì lúc đó nghe nói anh em đã lập gia đình rồi sẽ không được đi.

 

Thời đó không thể theo dõi hồ sơ qua mạng Internet như bây giờ. Sau khi nộp hồ sơ tại sở di trú trên đường Sansome ở San Francisco, tôi chỉ chờ thư thông báo. Nếu có điện thoại cũng phải đợi rất lâu mới được nói chuyện và câu trả lời thường là tôi phải chờ đến hạn kỳ thì sẽ có thư từ sở di trú báo phải làm gì kế tiếp.

 

Vài tháng sau sở di trú báo cho biết hồ sơ của tôi hoàn chỉnh và đã có số IV (Immigration Visa). Như thế coi như thủ tục giấy tờ hoàn tất, tôi tiếp tục chờ đợi.

 

Năm 1983, một người bác, anh của u tôi, sau nhiều năm đi học tập cải tạo, được cộng sản thả về và được con của bác làm hồ sơ xin đoàn tụ và phía Mỹ chấp thuận rất nhanh. Hai bác đến Mỹ đoàn tụ cùng các anh chị vào tháng 5/1983. Khi ra đi, bác muốn sang lại căn nhà ba tầng cho u tôi, nhưng cán bộ không cho và tịch thu.

 

Năm 1985, khi đến Thái Lan tôi có ghé cơ quan lãnh sự của sứ quán Mỹ để hỏi về tình trạng hồ sơ xin đoàn tụ và được biết đến năm 1990 thày u và các em sẽ được đi.

 

Không còn khả năng vượt biển nữa, em gái kế tôi chờ đợi ra đi theo chương trình ODP và năm 1991 đưa hai con qua Mỹ đoàn tụ với chồng. Sau 16 năm xa cách tôi mới gặp lại được một người em trên xứ Mỹ.

 

Vài tháng sau khi em gái tới Mỹ, sở di trú yêu cầu tôi bổ túc hồ sơ với hình ảnh của thầy u và của ba người em, cùng giấy tờ bảo trợ tài chánh.

 

Nhưng chỉ có thầy u quyết định đưa đứa em trai út ra đi. Hai em lớn hơn đã có gia đình, tuổi chưa đến 30, nhưng các em đã quyết định ở lại Việt Nam làm ăn vì sau khi có chính sách đổi mới kinh tế, các em tạo dựng cơ sở và đang làm ăn tốt nên không còn muốn đi Mỹ nữa.

 

Tháng 9/1992 thầy u và đứa em trai đến Mỹ. Các em ở lại nhà ngày càng làm ăn phát tài, sửa sang, xây dựng nhà cao cửa rộng.

 

Cuối năm 2000, vào dịp đám cưới người em út và cũng là dịp mừng thầy u 70 tuổi nên tất cả con cháu ở Hoa Kỳ đã có chuyến du lịch về Việt Nam xum họp gia đình.

 

Năm sau đó, hai người em không đi định cư Mỹ vào năm 1992 giờ lại muốn ra đi. Lần này người em út đã đứng đơn bảo lãnh.

 

Mười hai năm sau, năm 2013 cô em gái và gia đình sang Mỹ định cư. Ít lâu sau mua nhà, ổn định cuộc sống. Thỉnh thoảng hai vợ chồng vẫn đi đi về về lo công việc còn lại bên nhà.

 

Tháng Tám vừa qua, một người em trai nữa lại đưa gia đình qua Mỹ định cư. Vợ chồng em có cô con gái trên 21 tuổi từng du học Mỹ, nay ở lại Việt Nam và đang làm việc cho một công ty tư vấn sinh viên du học. Việc định cư sẽ do bố mẹ cháu bảo trợ sau. Khi nhận được thẻ xanh hai em cũng sẽ qua lại giữa hai quốc gia để lo công việc kinh doanh còn ở bên nhà.

 

Ngày nay truyền thông của nhà nước cộng sản Việt Nam không còn chửi người bỏ nước ra đi là chạy theo “đế quốc Mỹ”, vì chính những người cộng sản ngày trước, cũng như hiện tại và con cháu họ cũng đang ùn ùn chạy theo “đế quốc Mỹ”.

 

Tháng Tám 41 năm trước tôi đặt chân đến Mỹ. Thời gian qua gia đình tôi đã đón nhiều người thân quen đến đây định cư. Xin gửi lời chức mừng: “Welcome to the U.S.A.” đến các em, và tất cả những ai đã quyết định chọn Hoa Kỳ là nơi để lập nghiệp, dù giầu nghèo hay có khác biệt quan điểm, chính kiến.

 

 blank

H01: Mừng gia đình người em đến Mỹ (ảnh Bùi Văn Phú)

 blank

H02: Đón gia đình vợ chồng người em đến phi trường San Francisco chiều 21/8/2016 (ảnh Bùi Văn Phú)

 


..

Ý kiến bạn đọc
09/09/201612:20:12
Khách
Bắc Kỳ thúi rất khéo khoe khoang.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong bối cảnh thế giới đang trải qua những biến động nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và công nghệ, toàn cầu hoá – vốn từng được xem là động lực chính thúc đẩy cho tăng trưởng và thịnh vượng – đang đứng trước những thách thức chưa từng có. Tiến trình công nghiệp hoá và toàn cầu hoá đã đem lại nhiều thành tựu vượt bậc trong suốt thời gian dài qua, từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI, đặc biệt là thông qua sự chuyên môn hoá, tự do thương mại và tiến bộ công nghệ. Tuy nhiên, các cuộc khủng hoảng tài chính, đại dịch toàn cầu, chiến tranh và cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc đã khiến mô hình toàn cầu hoá truyền thống bộc lộ nhiều tình trạng bất ổn...
Nhiều thế hệ sống ở Sài Gòn những năm của thập niên 80-90, khi con gà trống của Thương Xá Tax chưa bị bức tử, khi những hàng cây cổ thụ trên đường Tôn Đức Thắng vẫn là nét thơ mộng của Sài Gòn, có lẽ đều quen thuộc với câu “Chương Trình Truyền Hình Đến Đây Là Hết…” Nó thường xuất hiện vào cuối các chương trình tivi tối, khi chưa phát sóng 24/24. Thời đó, mỗi ngày truyền hình chỉ phát sóng trong một số khung giờ nhất định (thường từ chiều đến khuya) nên hầu như ai cũng có tâm lý chờ đợi đến giờ ngồi trước màn ảnh nhỏ, theo dõi vài giờ giải trí. Đó cũng là chút thời gian quên đi một ngày cơ cực, bán mồ hôi cho một bữa cơm độn bo bo thời bao cấp. Nhắc nhớ chút chuyện xưa, để nói chuyện nay, đang diễn ra ở một đất nước văn minh hàng đầu, từng là niềm mơ ước của biết bao quốc gia về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận.
Trên mạng gần đây lan truyền một bức tranh chuỗi tiến hóa ngược nhại kiểu Banksy - vẽ hình ảnh tiến hóa quen thuộc từ khỉ tiến tới người, nhưng đến giữa chặng đường, một gương mặt ai cũng nhận ra quay lưng đi ngược lại về phía khỉ. Cái dáng ngoảnh đầu ấy khiến tôi chạnh lòng nghĩ đến hình ảnh nước Mỹ hôm nay. Giữa thế kỷ XXI, lẽ ra phải tiếp tục đi tới, nhưng thay vì mở rộng tự do học thuật – ngọn nguồn của sáng tạo – chúng ta lại thấy những dấu hiệu nước Mỹ thoái lui theo một quỹ đạo lạ lùng: thử nghiệm một kiểu “tiến hóa ngược”.
Từ khi Tối Cao Pháp Viện lật đổ Roe v. Wade, chúng ta đều biết câu chuyện không dừng lại ở đó. “Để tiểu bang tự quyết” chỉ là cái cớ. Và Texas, tiểu bang bảo thủ dẫn đầu, vừa chứng minh điều đó bằng một luật mới: trao cho bất kỳ ai quyền săn lùng và kiện những người dính dáng tới thuốc phá thai. Texas vốn đã có một trong những lệnh cấm khắc nghiệt nhất: phá thai bị cấm hoàn toàn, trừ vài ca y tế khẩn cấp. Không ngoại lệ cho thai dị tật chết non. Không ngoại lệ cho hiếp dâm. Không ngoại lệ cho loạn luân. Thế nên, nhiều phụ nữ Texas chỉ còn con đường tìm đến thuốc phá thai qua mạng, thường từ những nhà cung cấp ở ngoài tiểu bang. Luật mới nhắm thẳng vào cánh cửa mong manh ấy.
Suốt 250 năm, người Mỹ đồng ý rằng cai trị bởi một người duy nhất là sai lầm, rằng chính quyền liên bang vốn cồng kềnh, kém hiệu quả. Lẽ ra hai điều ấy đủ để ngăn một cá nhân cai trị bằng mệnh lệnh từ Bạch Ốc. Nhưng Trump đang làm đúng điều đó: đưa quân vào thành phố, áp thuế quan, can thiệp vào ngân hàng trung ương, chen vào quyền sở hữu công ty, gieo nỗi sợ để buộc dân chúng cúi đầu. Quyền lực bao trùm, nhưng không được lòng dân. Tỉ lệ chấp thuận của ông âm 14 điểm, chỉ nhỉnh hơn chút so với Joe Biden sau cuộc tranh luận thảm hại năm ngoái. Khi ấy chẳng ai lo ông Biden “quá mạnh”. Vậy tại sao Trump, dù bị đa số phản đối, vẫn dễ dàng thắng thế?
Có bao giờ bạn nói một điều rõ ràng như ban ngày, rồi nghe người khác nhắc lại với nghĩa hoàn toàn khác? Bạn viết xuống một hàng chữ, tin rằng ý mình còn nguyên, thế mà khi quay lại, nó biến thành điều bạn chưa từng nghĩ đến – kiểu như soi gương mà thấy bóng mình méo mó, không phải bị hiểu lầm, mà bị người ta cố ý dựng chuyện. Chữ nghĩa, rơi vào tay kẻ cố ý xuyên tạc, chẳng khác gì tấm gương vỡ. Mỗi mảnh gương phản chiếu một phần, nhưng người ta vẫn đem mảnh vỡ đó làm bằng chứng cho toàn bộ bức tranh. Một câu, một đoạn, một khẩu hiệu – xé khỏi bối cảnh trở nên lệch lạc – hóa thành thứ vũ khí đâm ngược lại chính ý nghĩa ban đầu. Câu chuyện của đạo diễn Trấn Thành gần đây là một minh họa. Anh chỉ viết đôi dòng thương tiếc chia buồn với sự ra đi của nghệ sĩ đàn bầu Phạm Đức Thành. Vậy thôi. Thế mà lập tức bị chụp mũ, bêu riếu, bị gọi “3 que,” “khát nước,” “Cali con.” Người ta diễn giải đủ kiểu, vẽ ra đủ cáo buộc: từ tội mê văn hóa Việt Nam Cộng Hòa đến tội phản quốc.
Sau thất bại trước đối thủ đảng Dân Chủ Joe Biden trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2020, nội các “gia đình trị” của Donald Trump gần như biến mất khỏi chính trường. Các đồng minh không thể có cùng tiếng nói với Trump, nhất là sau vụ bạo loạn Quốc Hội Jan 06. Duy nhất một người vẫn một lòng trung thành không bỏ rơi Trump, đó chính là Stephen Miller. Nhiệm kỳ hai của Trump, người được cho là có quyền lực hơn trong vòng tròn thân cận của Trump, hơn cả JD Vance, chẳng ai khác hơn chính là Stephen Miller. Để tạo ra những ảnh hưởng chính trong chính quyền Trump hôm nay, Miller đã có một đường dài chuẩn bị, khôn ngoan và nhẫn nại.
Đầu tháng 8 năm 2025, Tổng thống Donald Trump đã ký một mệnh lệnh đặc biệt, chỉ đạo các cơ quan hữu trách lập kế hoạch đưa quân đội Hoa Kỳ đi trấn áp các tổ chức tội phạm ở Mỹ Latinh. Khoảng hai tuần sau, mệnh lệnh đã thành hiện thực. Ba khu trục hạm có gắn phi đạn viễn khiển (guided-missile destroyers) của Hoa Kỳ đã được khai triển tới vùng biển Venezuela, đảm trách việc chặn giữ các chuyến hàng ma túy.
Một góc khuôn viên của Đồi Capitol sáng Thứ Tư là những câu chuyện tưởng đã bị chôn vùi, nay được kể ra trong sự run rẩy, xúc động và cả nước mắt. Trước hàng chục ống kính truyền thông chiếu trực tiếp trên toàn quốc, khoảng mười người phụ nữ lần lượt kể ra câu chuyện của chính mình – nạn nhân của Jeffrey Epstein, tỷ phú tội phạm tình dục và buôn bán mại dâm trẻ vị thành niên. Ngày đó, những phụ nữ này chỉ vừa 16, 18 tuổi, nhỏ nhất là Marina Lacerda, 14 tuổi.
Ở đời, chẳng có ngai vàng nào là miễn phí. Muốn hỏi cưới công chúa thì phải có sính lễ. Làm gì có chuyện đi tay không mà cuỗm được gái đẹp — trừ trường hợp dùng quyền lực bẩn thỉu cưỡng hiếp gái tơ (nghe quen quen). Muốn làm đàng anh đàng chị không thể vừa keo kiệt vừa đòi được người ta kính nể. Quy luật xưa nay không đổi ăn khế thì phải trả vàng. Ngai vàng toàn cầu cũng vậy -- không chỉ làm bằng vàng, mà còn bằng chi phí, lời hứa, và trên hết, là sự tín nhiệm.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.