Hôm nay,  

Đi Tìm Trật Tự Mới

10/09/201600:00:00(Xem: 94774)
Trật Tự “Tiền Chiến” Đang Tiêu Vong, Sau Đó Là Gì, Chưa Ai Biết…

Với trực giác hay cảm quan nằm ngoài lý tí, người dân bình thường tại nhiều quốc gia đang thấy thế giới của họ bị sụp đổ, từ kinh tế đến trật tự xã hội. Một số người đã có phản ứng bất thường mà tự phát, và gây lúng túng cho giới lãnh đạo và các phần tử gọi là ưu tú xưa hay vẫn hướng dẫn dư luận và cai trị xã hội.

Cuộc tranh cử tổng thống khá lạ kỳ năm nay tại Hoa Kỳ là một biểu hiện mà không duy nhất.

Đi ngược ánh mặt trời về hướng Đông, tại Âu Châu tình hình cũng tương tự, với sự tan rã chậm rãi của khối Liên Âu sau sáu năm khủng hoảng của đồng Euro. Một triệu chứng khác: tại Trung Đông, nền văn minh Hồi giáo đang trỗi dậy với khuynh hướng cực đoan quá khích và phương pháp khủng bố. Nó thổi lên làn sóng di dân làm Âu Châu thêm bất ổn. Từ đó mà tiến về Nam Á, Trung Á tới Viễn Đông, có điều gì đó đang xảy ra: sự suy yếu của Liên bang Nga, đà quật khởi của Trung Quốc “ngoài cứng trong mềm” hay phản ứng của Nhật Bản bên cạnh bán đảo Triều Tiên với hai nước Nam-Bắc Hàn, có thể dẫn tới xung đột và chiến tranh. Tại vùng biển Đông Nam Á, tình hình còn nghiêm trọng hơn vì tương quan bất lợi của 10 quốc gia trong Hiệp hội ASEAN trước sự hung hăng của Trung Quốc, lần đầu tiên đứng dậy kể từ 180 năm nay, nhưng trên đôi chân đất là nền kinh tế sắp bị khủng hoảng…

Đáng ngại hơn cả, ngần ấy biến động lại giàng vào nhau trong thực tế của một thế liên hoàn. Khủng hoảng Hồi giáo từ Trung Đông có thể dội lên Bắc Âu hay Trung Á vào Tân Cương. Khủng hoảng Ukraine từ Liên bang Nga sẽ tác động vào Đông Âu và gây họa cho Liên Âu. Khủng hoảng về nước và cá từ biển Đông Nam Á tràn lên Đông Bắc Á và thách đố khả năng ứng phó của các nước Đông Á lẫn khả năng gián chỉ, can gián, của Hoa Kỳ.

Mà cái trục của trật tự toàn cầu thành hình từ sau Thế Chiến II là Hoa Kỳ lại như quay trong chân không, để toàn đại lục Âu-Á sẽ trôi vào hỗn loạn.

Hậu quả là đại lục địa Âu Á, từ Tây Âu qua Đông Á, tiếp cận với Trung Đông và Bắc Phi, có thể bị loạn to, y như thời “Tiền Chiến”, trước Thế Chiến II, cách nay 80 năm. Đại lục này là nơi có năm tỷ người sinh sống – hai phần ba dân số toàn cầu – với các nền kinh tế năng động nhất mà cũng có nhiều võ khí tàn sát nhất. Chúng ta đang trở về thời… Tiền Chiến ngộp thở.

***

Về địa dư và lịch sự thì từ nhiều thế kỷ rồi, Đại lục địa Âu-Á từng là trung tâm của thế giới, nhưng là một trung tâm bất ổn với các cuộc khủng hoảng và đại chiến liên tục.

Tại Đông Á thì có Nhật-Hoa và Nhật-Nga Chiến tranh (1894 và 1905) rồi Chiến tranh Thái Bình Dương, Chiến tranh Cao Ly, cuộc chiến Việt Nam. Tại Tây Âu là chiến tranh Pháp Phổ (1871) rồi hai trận Thế chiến (1914-1918 và 1939-1945). Tình hình chỉ tạm lắng đọng sau Thế Chiến II và trong 40 năm “Chiến Tranh Lạnh 1949-1989. Ngoại lệ là… Việt Nam, chỉ tạm hết chiến tranh từ năm 1989 - và nay lại nằm dưới lằn đạn Trung Quốc!

Ngày nay, khu vực Âu-Á rộng lớn ấy lại đang trở thành một trung tâm bất ổn.

Từ Tây sang Đông, vùng bán đảo Tây-Âu của đại lục đang bị khủng hoảng về kinh tế, chính trị và an ninh. Nằm ngang đại lục là Liên bang Nga, cường quốc rộng lớn nhất, bị suy nhược về kinh tế, dân số và sắc tộc nên lấy rủi ro lớn là cố vùng dậy tại Đông Âu, vào sâu tới Trung Đông, nhưng thực chất vẫn là rỗng ruột. Tình hình Trung Quốc cũng không khác, với bất ổn kinh tế trong tâm can, được che giấu sau sự bành trướng về quân sự trên vùng biển cận duyên. Tại Trung Đông, một vụ khủng hoảng về tư tưởng và an ninh quân sự đang bung ra ngoài thành những mảnh vụn chết người và tư tưởng tự sát.

Vẫn biết rằng mỗi vùng lại có một sắc thái khủng hoảng riêng - Trung Đông khác Trung Quốc! – nhưng nét chung là sự bất ổn và những biến động bất ngờ. Tình hình Âu-Á trong các năm 1930-1936 cũng có những dấu hiệu tương tự, từ Tây Âu qua Đông Bắc Á, với kết qủa cũng bất ngờ là chiến tranh thế giới, là Thế Chiến II.

Xin hãy quay lại khúc phim xa xưa - về thời Tiền Chiến.


Thời gọi là “trước Thế chiến” khởi sự từ trăm năm trước, nếu chúng ta suy nghĩ chín chắn rằng Thế chiến I và II chỉ là một, với giai đoạn đình chiến ngắn ngủi là từ 1920 tới 1936. Nhưng vì sao chiến tranh lại bùng nổ?

Có nhiều nguyên nhân lắm, mà thật ra cũng chẳng khác gì ngày nay.

Thời đó có ba cường quốc nổi lên làm đảo lộn trật tự toàn cầu là Đức, Nhật, Mỹ. Thời đó, nước Nga chưa góp mặt. Ba cường quốc đó cũng chưa góp mặt trong Thế kỷ 19. Chính là sự hùng mạnh của Đức và Hoa Kỳ mới dẫn tới một cục diện khác: chấm dứt sự thống trị của hai Đế quốc Âu Châu là Anh và Pháp. Sau Thế chiến 1 (1919-1920), nước Đức bại trận đã vùng dậy và nước Nhật chiếm ngôi bá chủ Châu Á trước sự bất định và do dự của Hoa Kỳ giữa những thay đổi mới. Sự bất định ấy giải thích vì sao Hoa Kỳ nhập trận rất trễ vào cả hai Thế Chiến (1917 và 1941) khi các cường quốc gia đã lao vào chiến tranh.

Hậu quả kinh tế của Thế Chiến I là sự sụp đổ của nước Đức và sự tan rã cơ cấu sản xuất tại hai nước thắng trận là Anh Pháp. Khủng hoảng kinh tế Anh, Pháp, Đức và sự xuất hiện của Liên bang Xô viết sau cách mạng cộng sản đã gây nhiều xáo trộn xã hội và chính trị cho cả Âu Châu. Đấy là lúc chúng ta chứng kiến những chuyện tương tự của ngày nay: Thế chiến II khiến nhiều Đế quốc lớn tan rã, đó là Đế quốc Habsburg, Hohenzollen tại Tây Âu, đế quốc Nga của dòng Romanoff tại Đông Âu và Đế quốc Ottoman tại Trung Đông. Đáng chú ý nhất, nhiều quốc gia vừa giành lại độc lập từ các mảnh vụn đó đã phát huy chủ nghĩa quốc gia dân tộc.

Ngày nay, động lực tinh thần là chủ nghĩa đang manh nha. Ngày xưa, nó góp phần dẫn tới Thế Chiến II trên cả đại lục Âu-Á. Đấy là những chuyển động của thời “Tiền Chiến”. Nếu nhớ lại, thời kỳ mà chúng ta gọi là “Tiền Chiến” chỉ là một sự tan rã của trật tự toàn cầu.

Các Đế quốc Âu Châu bị suy sụp về kinh tế, Đế quốc Xô viết thành hình với nỗ lực kỹ nghệ hóa và tàn sát. Trung Đông rơi vào ảnh hưởng của Anh và Pháp, với nhiều nước Hồi giáo đi tìm giải pháp hiện đại hóa từ nước Đức phát xít. Trung Quốc bị khủng hoảng, nội chiến, xứ sở tan tành vì các lãnh chúa, và bị ngoại xâm: bị Đế quốc Nhật xâm chiếm từ năm 1930.Trong khi việc canh tân và hiện đại hóa nước Nhật, dưới ánh sáng cùa chủ nghĩa dân tộc, lại dẫn đến chủ nghĩa phát xít của một chế độ quân phiệt, hình như đấy lại là kịch bản Trung Quốc ngày nay.

Cách xa hiện trường đầy bất ổn đó là hoàn cảnh Hoa Kỳ, vuông vực và phì nhiêu giữa hai đại dương lớn nhất địa cầu.

Khi đó, Hoa Kỳ cũng bị chấn động kinh tế bên trong với vụ Tổng khủng hoảng 1929-1933 nhưng không lui về chủ nghĩa tự cô lập – như người ta đang lo sợ ngày nay. Hoa Kỳ khi đó đã cố gắng can thiệp vào đại lục Âu-Á vì muốn ngăn ngừa một cuộc chiến tại Âu Châu, mà không xong. Khi đó, Hoa Kỳ cũng can thiệp khá tích cực về quân sự lẫn chính trị vào Đông Á, vì là một cường quốc Á Châu mới. Nhưng các biến động tại đại lục Âu-Á đều liên kết với nhau, tác động vào nhau, với Âu Châu, Hoa Kỳ và Liên Xô đều can dự vào Trung Quốc. Khi chiến tranh bùng nổ, nước Mỹ vẫn phải nhập cuộc mà khá trễ, vào cuối năm 1941, sau vụ Trân Châu Cảng - tại Đông Á.

Dù lịch sử không khi nào tái diễn theo cùng một kịch bản, khi những chuyển động lớn của thời xưa lại tái xuất hiện, ta có thể thấy rằng trật tự cũ thành hình từ năm 1945 đang đi vào tan rã.

Như những con sâu cái kiến nằm sát mặt đất nên cảm nhận được sự chuyển động, hay động đất, người dân bình thường của nhiều quốc gia đã hoang mang và bất mãn. Sau đó là gì thì ở trên đỉnh tháp, giới lãnh đạo thật ra chưa biết. Nếu có biết thì cũng sẽ lại tìm cách ngăn ngừa. Nhưng nếu họ thất bại, chuyện của mươi năm tới, chúng ta nên tự chuẩn bị cho những gì đen tối nhất!

Đâm ra, qua năm Đinh Dậu 2017, có khi ta lại nhìn vào Thế giới Ất Dậu 1945, của 72 năm trước. Thiên hạ có thể nhìn vào đó với nỗi lo sợ. Ngoại lệ vẫn là Việt Nam. Dân ta sẽ nhìn vào đó với niềm hy vọng sau những kinh nghiệm bi thảm của mấy chục năm qua….

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.