Hôm nay,  

Nhà Thơ, Nhà Báo Phạm Văn Hạnh

04/10/201611:03:00(Xem: 7982)

Pham Van HanhPhạm Văn Hạnh

Nghề nghiệp: Nhà thơ, nhà báo.

Bút hiệu: Thê Húc, Thời Nhân, Thế Nhân, Tịch Khách, Thanh Trai, Thế Chu…

Năm sinh: ngày 1 tháng 3 năm 1913 tại Hà Nội.

Năm mất: ngày 7 tháng 6 năm 1987 tại Syracuse, New York, USA.

Niên biểu:
1939-1945: tại Hà Nội, cùng Nguyễn Lương Ngọc, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Đỗ Cung thành lập nhóm Xuân Thu Nhã Tập, viết báo, dịch sách.
1945-1954: tại Sàigòn, tham gia báo Chân Trời Mới, viết báo, dịch sách, viết sách giáo khoa.
1954-1975: tại Sàigòn, trưởng ban dịch thuật Pháp văn cho Việt Tấn Xã (Vietnam Press), dịch sách báo tiếng Anh, Pháp qua Việt ngữ, viết cho các tuần báo, nguyệt san, tạp chí.
1975-1987: di tản qua Mỹ ngày 25-4-1975, viết cho các báo Việt ngữ tại hải ngoại.
Tác phẩm:
Giọt sương hoa (1942)
Dân chủ và dân chủ (1948)
Văn chương và xã hội (1948)
Nghệ thuật và nhân sinh (viết chung với Tam Ích và Thiên Giang) (1949)
Tia nắng (1950)
Bài hát Tì Bà (Tì Bà hành) (1952)
Bảng toát yếu về bước đường tiến hóa của văn học Việt Nam (1953)

 Cha của ông là Phạm Văn An sinh ở Sa Đéc nhưng cha mẹ mất sớm nên thuở nhỏ ở với ông bà ngoại ở Bình Tiên (Chợ Lớn), mẹ là Dương Thị Lương người Cần Giuộc. Cha của ông được cử ra miền Bắc làm Tham Tá Thương Chánh ở Hà Nội từ đầu thế kỷ 20, tham tá An có 7 người con, ngoại trừ người con gái đầu sinh ở miền Nam, các người con khác đều sinh ở miền Bắc và Phạm Văn Hạnh là người con thứ sáu (thứ bảy theo cách gọi của người miền Nam). Người con gái thứ tư (miền Nam là thứ năm) là mẹ của nhà văn, nhà thơ Nguyễn Đăng Thường (giáo sư trường Chu Văn An), người con gái thứ năm (miền Nam là thứ sáu) là mẹ của Bình Minh (giáo sư văn khoa), Bình Thanh (nhà ngoại giao) và Bình Trang (giáo sư âm nhạc). Đầu thập niên 1930 tham tá Phạm Văn An nghỉ hưu trở về miền Nam sinh sống ở Cần Thơ để gần người con gái thứ hai, tại đây ông đầu tư vào việc mua nhà cửa và ruộng đất, hiện nay căn nhà hương hỏa của họ Phạm còn ở nơi cầu Cái Khế, có lẽ vì vậy mà nhiều người lầm tưởng là Phạm Văn Hạnh quê ở Cần Thơ. Lúc đó Phạm Văn Hạnh đang theo học y khoa nên ở lại Hà Nội và cộng tác với các báo Thanh Nghị, Ngày Nay, Tinh Hoa, Thế Giới..., mỗi tháng được cha gởi trợ cấp cho 30 đồng, đây là một số tiền lớn, còn hơn cả lương công chức cao cấp thời đó.

Năm 1939 Phạm Văn Hạnh cùng Nguyễn Lương Ngọc, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Đỗ Cung hình thành một tuyên ngôn nghệ thuật lấy tên là Xuân Thu Nhã Tập, bao gồm phần lý thuyết và phần thực hành trên ba lãnh vực: Thơ, Nhạc và Họa, đến tháng 6 năm 1942 thì nhóm cho phát hành tập Xuân Thu Nhã Tập. Trong thời gian này Phạm Văn Hạnh bị bịnh lao, cuối năm 1942 ông vào Faifo (Hội An) dạy học một thời gian ngắn, tháng 10 năm 1943 ông về Cần Thơ thọ tang cha, thọ tang mẹ năm 1944 và ở đó cho đến khi chiến tranh bùng nổ vào năm 1945 thì lên Sàigòn làm báo.

Tại Sàigòn, Phạm Văn Hạnh cùng với Thiếu Sơn, Thiên Giang, Tam Ích viết lý luận và phê bình văn học hiện thực Mác-xít cho báo Chân Trời Mới và viết sách giáo khoa cùng dịch những sách của hội Cơ Đốc Phục Lâm (Seventh-Day Adventist Church) từ tiếng Anh ra tiếng Việt. Trong thời gian này, nhiều người biết đến ông qua bút hiệu Thê Húc. Vì có bịnh lao nên sau khi khỏi bịnh ông mới lập gia đình vào tháng 1 năm 1953, lúc đó đã 40 tuổi. Năm 1954 Phạm Văn Hạnh làm cho Việt Tấn Xã (Vietnam Press), đến năm 1966 thì phải về hưu (tuổi hưu lúc đó là 53) nhưng vì ông đang làm trưởng ban dịch thuật Pháp văn mà không có người thay thế nên được giữ lại làm cho đến năm 60 tuổi (1973) thì về hưu, tuy nhiên sau đó vẫn không có người thay nên Việt tấn xã lại tiếp tục ký hợp đồng ngắn hạn với ông vài ba tháng một lần cho đến tháng 4 năm 1975. Trong thời gian làm việc cho Việt tấn xã, Phạm Văn Hạnh cũng cộng tác thường xuyên với các tạp chí, tuần báo, nguyệt san tại Sàigòn như Bách Khoa, Phổ Thông...

Vào những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, Phạm Văn Hạnh cùng gia đình rời Việt Nam qua đảo Guam ngày 25 tháng 4 năm 1975, đến ngày 9 tháng 5 gia đình được chuyển qua trại tị nạn Fort Chaffee ở Little Rock, Arkansas, Mỹ quốc và định cư tại Tully, một thị trấn nhỏ ở phía Nam thành phố Syracuse, tiểu bang New York ngày 10 tháng 6 năm 1975.

Từ đây Phạm Văn Hạnh phải làm việc không liên quan tới ngành báo chí, sách vở là làm việc cho viện dưỡng lão “Loretto Nursing Homes” ở Syracuse để sinh sống, tuy nhiên, ông vẫn thường xuyên gửi bài viết cho các tờ báo người Việt ở hải ngoại. Năm 1980 Phạm Văn Hạnh dọn về Syracuse, New York và nghỉ hưu vào năm 1985. Đầu năm 1987 ông bị ngã chấn thương đầu, nằm nhà thương 3 tháng, sau đó về nhà nhưng lại bị ngã thêm một lần nữa và ông từ trần vào ngày 7 tháng 6 năm 1987, thọ 74 tuổi và được hỏa táng ngày 10 tháng 6 năm 1987, đúng 12 năm sau khi ông định cư tại Mỹ. Phạm Văn Hạnh có 4 người con, 2 trai, 2 gái, hiện nay vợ con ông sinh sống tại Hoa Kỳ.

Theo lời thuật lại của người em trai út của Phạm Văn Hạnh là Phạm Văn Long (Tám Long) thì khi còn ở Hà Nội, gia đình tham tá Phạm Văn An ở tại số 35 phố Cầu Gỗ, phía sau nhà nhìn ra cầu Thê Húc nên sau này Phạm Văn Hạnh lấy bút hiệu Thê Húc để nhớ về kỷ niệm thời trẻ. Ngoài ra, ông còn dùng những bút danh khác như Thời Nhân, Thế Nhân, Tịch Khách, Thanh Trai, Thế Chu v.v…

Có một số người liệt kê Phạm Văn Hạnh thuộc vào giới cầm bút miền Nam giống như các ông Tam Ích, Thiên Giang, nhưng thật ra tuy cha mẹ là người miền Nam, ông lại sanh ra và lớn lên tại miền Bắc như anh em gia đình Nhất Linh, đến năm 30 tuổi ông mới vào Nam sinh sống nên ông nói giọng Bắc và sinh hoạt như người Hà Nội chính cống, sau này lấy vợ là người Sa Đéc nhưng vợ con ông cũng nói tiếng Bắc theo ông. Nhà thơ Nguyễn Đăng Thường gọi Phạm Văn Hạnh là cậu ruột có kể một câu chuyện vui là khi Phạm Văn Hạnh lên Sàigòn sinh sống, lúc đó chưa có vợ nên ông ở nhà người chị ruột, một hôm người chị làm gà xé phay là món miền Nam, ông thấy gà xé miếng nhỏ không giống như những miếng gà luộc có lá chanh thái mỏng như người miền Bắc nên từ đó ông không ăn cơm ở nhà mà ra ngoài ăn.

Phạm Văn Hạnh là người kín đáo, ít nói nên tuy ông có viết trên các báo nhưng với nhiều bút hiệu khác nhau nên không rõ là ông đã sáng tác nhiều hay ít và thuộc thể loại nào. Thí dụ như sau khi ông mất, gia đình thấy trên bàn viết của ông có một chi phiếu 20$ của báo Tiền Phong tại Mỹ trả nhuận bút cho một bài viết của ông với bút hiệu là Thế Chu (do chữ Thê Húc sắp lại). Năm 2000 nhà thơ Nguyễn Đăng Thường có sưu tập những bài thơ của Phạm Văn Hạnh ở rải rác khắp nơi và in thành tập thơ “Giọt Sương Hoa và những bài thơ khác”. Phạm Văn Hạnh theo đạo Lão nhưng được nhà thờ United Methodist Church ở Tully, New York bảo trợ nên thỉnh thoảng gia đình ông vẫn sinh hoạt với nhà thờ vì ông có người con trai đàn vĩ cầm rất hay nên thường đàn giúp nhà thờ trong những buổi Thánh lễ. Nhà thờ United Methodist Church là nơi đầu tiên đã đón tiếp gia đình ông định cư tại Mỹ vào ngày 10 tháng 6 năm 1975 và cũng là nơi làm lễ an táng cho ông trước khi hỏa táng vào ngày 10 tháng 6 năm 1987 (tròn 1 giáp 12 năm) nên sau này gia đình chọn ngày 10 tháng 6 làm ngày giỗ của ông thay vì ngày mất là 7 tháng 6.

Tác phẩm đã xuất bản:
Giọt sương hoa (1942)
Dân chủ và dân chủ (1948)
Văn chương và xã hội (1948)
Nghệ thuật và nhân sinh (viết chung với Tam Ích và Thiên Giang) (1949)
Tia nắng (1950)
Bài hát Tì Bà (Tì Bà hành) (1952)
Bảng toát yếu về bước đường tiến hóa của văn học Việt Nam (1953)

Nguyễn Tuấn Khanh 

San Jose, ngày 3 tháng 10 năm 2016

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong bối cảnh thế giới đang trải qua những biến động nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và công nghệ, toàn cầu hoá – vốn từng được xem là động lực chính thúc đẩy cho tăng trưởng và thịnh vượng – đang đứng trước những thách thức chưa từng có. Tiến trình công nghiệp hoá và toàn cầu hoá đã đem lại nhiều thành tựu vượt bậc trong suốt thời gian dài qua, từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI, đặc biệt là thông qua sự chuyên môn hoá, tự do thương mại và tiến bộ công nghệ. Tuy nhiên, các cuộc khủng hoảng tài chính, đại dịch toàn cầu, chiến tranh và cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc đã khiến mô hình toàn cầu hoá truyền thống bộc lộ nhiều tình trạng bất ổn...
Nhiều thế hệ sống ở Sài Gòn những năm của thập niên 80-90, khi con gà trống của Thương Xá Tax chưa bị bức tử, khi những hàng cây cổ thụ trên đường Tôn Đức Thắng vẫn là nét thơ mộng của Sài Gòn, có lẽ đều quen thuộc với câu “Chương Trình Truyền Hình Đến Đây Là Hết…” Nó thường xuất hiện vào cuối các chương trình tivi tối, khi chưa phát sóng 24/24. Thời đó, mỗi ngày truyền hình chỉ phát sóng trong một số khung giờ nhất định (thường từ chiều đến khuya) nên hầu như ai cũng có tâm lý chờ đợi đến giờ ngồi trước màn ảnh nhỏ, theo dõi vài giờ giải trí. Đó cũng là chút thời gian quên đi một ngày cơ cực, bán mồ hôi cho một bữa cơm độn bo bo thời bao cấp. Nhắc nhớ chút chuyện xưa, để nói chuyện nay, đang diễn ra ở một đất nước văn minh hàng đầu, từng là niềm mơ ước của biết bao quốc gia về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận.
Trên mạng gần đây lan truyền một bức tranh chuỗi tiến hóa ngược nhại kiểu Banksy - vẽ hình ảnh tiến hóa quen thuộc từ khỉ tiến tới người, nhưng đến giữa chặng đường, một gương mặt ai cũng nhận ra quay lưng đi ngược lại về phía khỉ. Cái dáng ngoảnh đầu ấy khiến tôi chạnh lòng nghĩ đến hình ảnh nước Mỹ hôm nay. Giữa thế kỷ XXI, lẽ ra phải tiếp tục đi tới, nhưng thay vì mở rộng tự do học thuật – ngọn nguồn của sáng tạo – chúng ta lại thấy những dấu hiệu nước Mỹ thoái lui theo một quỹ đạo lạ lùng: thử nghiệm một kiểu “tiến hóa ngược”.
Từ khi Tối Cao Pháp Viện lật đổ Roe v. Wade, chúng ta đều biết câu chuyện không dừng lại ở đó. “Để tiểu bang tự quyết” chỉ là cái cớ. Và Texas, tiểu bang bảo thủ dẫn đầu, vừa chứng minh điều đó bằng một luật mới: trao cho bất kỳ ai quyền săn lùng và kiện những người dính dáng tới thuốc phá thai. Texas vốn đã có một trong những lệnh cấm khắc nghiệt nhất: phá thai bị cấm hoàn toàn, trừ vài ca y tế khẩn cấp. Không ngoại lệ cho thai dị tật chết non. Không ngoại lệ cho hiếp dâm. Không ngoại lệ cho loạn luân. Thế nên, nhiều phụ nữ Texas chỉ còn con đường tìm đến thuốc phá thai qua mạng, thường từ những nhà cung cấp ở ngoài tiểu bang. Luật mới nhắm thẳng vào cánh cửa mong manh ấy.
Suốt 250 năm, người Mỹ đồng ý rằng cai trị bởi một người duy nhất là sai lầm, rằng chính quyền liên bang vốn cồng kềnh, kém hiệu quả. Lẽ ra hai điều ấy đủ để ngăn một cá nhân cai trị bằng mệnh lệnh từ Bạch Ốc. Nhưng Trump đang làm đúng điều đó: đưa quân vào thành phố, áp thuế quan, can thiệp vào ngân hàng trung ương, chen vào quyền sở hữu công ty, gieo nỗi sợ để buộc dân chúng cúi đầu. Quyền lực bao trùm, nhưng không được lòng dân. Tỉ lệ chấp thuận của ông âm 14 điểm, chỉ nhỉnh hơn chút so với Joe Biden sau cuộc tranh luận thảm hại năm ngoái. Khi ấy chẳng ai lo ông Biden “quá mạnh”. Vậy tại sao Trump, dù bị đa số phản đối, vẫn dễ dàng thắng thế?
Có bao giờ bạn nói một điều rõ ràng như ban ngày, rồi nghe người khác nhắc lại với nghĩa hoàn toàn khác? Bạn viết xuống một hàng chữ, tin rằng ý mình còn nguyên, thế mà khi quay lại, nó biến thành điều bạn chưa từng nghĩ đến – kiểu như soi gương mà thấy bóng mình méo mó, không phải bị hiểu lầm, mà bị người ta cố ý dựng chuyện. Chữ nghĩa, rơi vào tay kẻ cố ý xuyên tạc, chẳng khác gì tấm gương vỡ. Mỗi mảnh gương phản chiếu một phần, nhưng người ta vẫn đem mảnh vỡ đó làm bằng chứng cho toàn bộ bức tranh. Một câu, một đoạn, một khẩu hiệu – xé khỏi bối cảnh trở nên lệch lạc – hóa thành thứ vũ khí đâm ngược lại chính ý nghĩa ban đầu. Câu chuyện của đạo diễn Trấn Thành gần đây là một minh họa. Anh chỉ viết đôi dòng thương tiếc chia buồn với sự ra đi của nghệ sĩ đàn bầu Phạm Đức Thành. Vậy thôi. Thế mà lập tức bị chụp mũ, bêu riếu, bị gọi “3 que,” “khát nước,” “Cali con.” Người ta diễn giải đủ kiểu, vẽ ra đủ cáo buộc: từ tội mê văn hóa Việt Nam Cộng Hòa đến tội phản quốc.
Sau thất bại trước đối thủ đảng Dân Chủ Joe Biden trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2020, nội các “gia đình trị” của Donald Trump gần như biến mất khỏi chính trường. Các đồng minh không thể có cùng tiếng nói với Trump, nhất là sau vụ bạo loạn Quốc Hội Jan 06. Duy nhất một người vẫn một lòng trung thành không bỏ rơi Trump, đó chính là Stephen Miller. Nhiệm kỳ hai của Trump, người được cho là có quyền lực hơn trong vòng tròn thân cận của Trump, hơn cả JD Vance, chẳng ai khác hơn chính là Stephen Miller. Để tạo ra những ảnh hưởng chính trong chính quyền Trump hôm nay, Miller đã có một đường dài chuẩn bị, khôn ngoan và nhẫn nại.
Đầu tháng 8 năm 2025, Tổng thống Donald Trump đã ký một mệnh lệnh đặc biệt, chỉ đạo các cơ quan hữu trách lập kế hoạch đưa quân đội Hoa Kỳ đi trấn áp các tổ chức tội phạm ở Mỹ Latinh. Khoảng hai tuần sau, mệnh lệnh đã thành hiện thực. Ba khu trục hạm có gắn phi đạn viễn khiển (guided-missile destroyers) của Hoa Kỳ đã được khai triển tới vùng biển Venezuela, đảm trách việc chặn giữ các chuyến hàng ma túy.
Một góc khuôn viên của Đồi Capitol sáng Thứ Tư là những câu chuyện tưởng đã bị chôn vùi, nay được kể ra trong sự run rẩy, xúc động và cả nước mắt. Trước hàng chục ống kính truyền thông chiếu trực tiếp trên toàn quốc, khoảng mười người phụ nữ lần lượt kể ra câu chuyện của chính mình – nạn nhân của Jeffrey Epstein, tỷ phú tội phạm tình dục và buôn bán mại dâm trẻ vị thành niên. Ngày đó, những phụ nữ này chỉ vừa 16, 18 tuổi, nhỏ nhất là Marina Lacerda, 14 tuổi.
Ở đời, chẳng có ngai vàng nào là miễn phí. Muốn hỏi cưới công chúa thì phải có sính lễ. Làm gì có chuyện đi tay không mà cuỗm được gái đẹp — trừ trường hợp dùng quyền lực bẩn thỉu cưỡng hiếp gái tơ (nghe quen quen). Muốn làm đàng anh đàng chị không thể vừa keo kiệt vừa đòi được người ta kính nể. Quy luật xưa nay không đổi ăn khế thì phải trả vàng. Ngai vàng toàn cầu cũng vậy -- không chỉ làm bằng vàng, mà còn bằng chi phí, lời hứa, và trên hết, là sự tín nhiệm.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.