Hôm nay,  

Xuân Muộn

26/01/201700:00:00(Xem: 5194)
Tuyền thức nhưng vẫn nằm nán trong giường lắng nghe tiếng chim.  Buổi sáng, buổi sáng nơi quê nhà, có một cái gì đó êm ả mát lòng dù cái gì đó thật khó định nghĩa và chẳng có mùi vị dạng hình.  Tuyền chỉ biết chắc một điều – phải rời khỏi mảnh đất mình đã sinh sống mới biết rõ thế nào là hai chữ quê nhà, cũng như phải mất đi một người, phải cầm một cái chết trên tay, mới mong hiểu được phần nào lẽ sống.  Anh Lâm thôi đã không còn, và sự vắng mặt của anh Lâm như đánh thức Tuyền sau giấc ngủ dài, làm sống dậy một con người khác trong Tuyền.

XUAN MUON
Cành hoa xuân...

Tuyền dậy, búi gọn lại mớ tóc và rảo một vòng quanh nhà.  Mọi thứ ngăn nắp sạch sẽ như Tuyền chưa hề vắng bóng sáu tháng qua.  Tuyền nghĩ đến con Nhàn, con Hương, nhưng có lẽ Mẫn mới là người thực sự chăm sóc căn nhà này.  Đêm qua khi tắc xi đỗ trước hàng rào gỗ thì ở nhà bên Mẫn đã bật đèn ra phụ tài xế đem va li vào.  Chuyến bay dài dẫu êm ả vẫn làm Tuyền thấy mệt bã cả người, chỉ có thể nói vài câu thăm hỏi bâng quơ rồi mau mắn thay quần áo lên giường khi Mẫn đã ý nhị rút lui.  Mẫn vẫn vậy từ ngày về lại mái nhà cũ nơi xóm này – thầm lặng và ân cần, cái ân cần không nói nhưng bao biện mọi thứ trong cuộc sống của Tuyền.  Tuyền ngạc nhiên thấy ý nghĩ về Mẫn như đã hình thành rất lâu trong đầu Tuyền và bây giờ mới xuất hiện.  

Tuyền ra bàn thờ thắp nhang cho anh Lâm.  Chiếc ghế ngựa vẫn đặt xéo một góc nơi cửa sổ, tấm chăn mỏng gấp gọn ghẽ vắt trên thành ghế như sẵn sàng đón nhận người ngồi.  Có phải chiếc ghế đang lắc nhẹ hay chỉ là ảo tưởng?  Tuyền pha một ly cà phê rồi ngồi vào chỗ của người xưa.  Tuyền đã ngồi vào ghế này biết bao lần sau khi anh Lâm mất đi, mỗi lần thấy ra một hình ảnh khác của vườn nhà quen thuộc, một màu sắc khác của bầu trời quen thuộc.  Nhưng có lẽ Tuyền không bao giờ thấy được những gì anh Lâm đã thấy, cũng như hết cuộc đời làm vợ của Tuyền cũng đã không bao giờ hiểu được anh Lâm nghĩ gì cảm gì khi ôm những người đàn bà khác trong tay, khi miệt mài ngày tháng lao hết sức mình vào một cuộc sống quay cuồng không có Tuyền.  Anh có hạnh phúc khi có được nhiều mối tình?  Anh có khổ đau khi phải xa một người tình?  Tình, có thật là tình không, bởi với Tuyền chữ tình thật lớn lao, quá lớn lao, lớn hơn cả cuộc đời mình, làm sao người ta có thể ôm hết cái lớn lao này qua cái lớn lao khác?  Nó đè mình chết.  Ý nghĩ làm Tuyền bật cười, và nhận ra mình đã khóc hết cả cuộc đời làm vợ cho đến bây giờ vẫn chưa thôi ai oán.

Mà Tuyền đã không khóc được buổi sáng ấy, khi tìm thấy anh Lâm nơi chiếc ghế này, một thân người lặng lẽ ngay ngắn mặt hướng ra cửa sổ như muốn nhìn thấy thu lấy ánh bình minh cuối cùng trên mặt đất, với tấm chăn vắt ngang bụng.  Tuyền thấy mình rỗng không như một bóng ma không đớn đau cảm xúc, và mọi sự lướt quanh như một đoạn phim câm.  Cho đến bây giờ Tuyền vẫn không biết lý do nào khiến Mẫn bước vào căn nhà này để kịp túm lấy Tuyền đang từ từ trượt xuống nền nhà.  Mẫn xốc Tuyền đến đi văng cách bàn mấy bước, rồi vội vã ra cửa.  Vài phút, rồi tiếng lao xao phá vỡ khúc phim câm, Nhàn và họa sĩ Dũng ùa vào, lại một khúc phim câm mới.  Anh em Mẫn Nhàn vốn là những đứa trẻ ít lời, bên cạnh họa sĩ Dũng nếu có nói thì cũng chỉ là những bệt màu vằn vện…  Cứ thế, buổi sáng ấy như bị chặn đứng quay mòng trong cái lao xao không tiếng cho đến trưa thì xóm làng đã tấp nập nơi nhà Tuyền như thể một ngày hội vỡ, rồi thời gian như được giải thoát, lao vút ra phía trước.

Mẫn và họa sĩ Dũng lo liệu tẩn liệm, trong khi Nhàn và Hương tìm dì Ba nhờ chỉ vẽ xếp đặt lễ tang.  Trong khói hương xám buồn, Mẫn ngồi cùng các vị sư nghiêm cẩn tụng niệm.  Những lúc họ hàng bè bạn bà con đến phúng viếng, chiếc bóng áo nâu thường lặng lẽ quẩn quanh.  Mầu áo nâu của Mẫn như nền đất cho Tuyền trụ chân, như cột phao giữ Tuyền là chiếc thuyền bé dập dềnh khỏi trôi dạt ra ngoài cõi trần gian, như con nước êm đẩy Tuyền vượt những dợn sóng gian nan.  Con Hương với cái bụng vượt mặt cũng thành bà bão mẫu của Tuyền.  Nó thản nhiên quên chuyện cấm kỵ bà bầu đến đám tang như đã thản nhiên chấp nhận làm vợ Phong qua mai mối.  Mối tình câm với Mẫn dường chỉ còn là cái cau mày cay đắng, “tình đã không nên thì nuôi mãi trong lòng có ích chi.”   Phong đã dành được vị thế lớn trong phường nên giúp Tuyền được chôn anh Lâm nơi mảnh vườn sau nhà như anh ước nguyện.  Anh đã nằm vào chỗ Tuyền dành sẵn cho Tuyền.

Tuyền ra sau vườn.  Mộ anh Lâm không đắp cao, chỉ vuông vức như một bồn hoa với mặt cỏ xanh tươi và hai vồng hoa dọc theo hai bên hông như hai hàng nến ấm.  Họa sĩ Dũng đã khéo léo làm hai ống cắm hoa đơn sơ trang nhã hai bên một tấm bia nhỏ nơi đầu mộ.  Bát hương trước mộ đầy chân nhang, Mẫn đã không quên thay Tuyền làm cái thói quen hằng ngày ấy.  Cúc Vạn Thọ nở thắm hai bên bờ cỏ, Mẫn đã tỉ mỉ gieo hai sắc vàng và cam xen lẫn với nhau, thay cho đợt hoa móng tay hồng lạt lần trước.  Ngoài hai sắc hoa, quanh vườn chỉ toàn lá xanh, những loại cây kiểng hoặc cây ăn trái đứng như những quân cờ khiêm tốn không đổi thay.  Cuối vườn, bên cạnh cây soài cao rợp có một thân cây nâu bóng mảnh mai nhưng rắn rỏi.  Tuyền dợm bước rồi lại thôi, để chợ búa xong lúc rảnh rồi sẽ ngó tới.  

Hôm nay là 30 Tết, Tuyền phải mua sắm một vài thứ cho cái mái gia đình chỉ còn trơ trọi mình Tuyền.  Tuyền thay quần áo rồi đón xe ôm ra chợ.  Góc vườn bên, một làn khói mỏng nhẹ vờn lên trong không gian.  Tuyền thấy nhói lòng.  Mẫn, Tuyền biết nghĩ sao về Mẫn.  Xe ôm lăn bánh, hình ảnh con Phụng và Mẫn như nhảy nhót theo hai lề đường giật lui.

Đám tang qua đi như đã phải qua đi, chỉ ba ngày để kết thúc một chuỗi tháng ngày dài.  Khi nắm đất cuối cùng buông xuống huyệt anh Lâm, khoảng cách xa lạ giữa Phụng và Mẫn đã nhòe, và đáng sợ hơn nữa là cái khoảng cách tuổi tác giữa Tuyền với Mẫn dường đã xóa.  Mẫn không còn là đứa trẻ 11 tuổi đá banh với lũ trẻ hàng xóm nơi khoảng sân rộng bên kia đường, và Tuyền cũng không còn là cô gái 19 ngây thơ khi về với anh Lâm.  Còn lại duy nhất là ánh mắt hoang dại của Mẫn-mười-một-tuổi trong một phần giây đã chạm đáy mắt Tuyền.

Những ngày còn lại, Phụng biến Mẫn thành một người cận vệ, một người bạn dẫn đường tin cẩn.  Mẫn thay bộ quần áo vải nâu với quần tây nâu sơ mi màu nhạt mỗi khi chở Phụng ra Sài Gòn.  Mẫn giúp Phụng mua bán, thăm bè bạn.  Mẫn đưa Phụng tìm người quen.  Mẫn dẫn Phụng đi ăn quà nơi phố chợ.  Nhưng Mẫn nhất quyết không dự những đám tiệc của Phụng.  Và, Mẫn hút thuốc cùng Phụng.  Hút thuốc, một nhịp tim của Tuyền thắt lại khi thấy vòng khói tỏa lên sau vườn.  Đứa con gái bé bỏng của anh Lâm nay đã là một kẻ trưởng thành.  Tuyền đã đứng sau khung cửa sổ nhìn xéo ra vườn, ngắm nghía cái cách con Phụng ngồi thầm lặng trầm ngâm với điếu thuốc trên tay và biết rằng cuộc đời đã dạy cho con mình rất nhiều điều chỉ có Thượng Đế mới làm được, và Tuyền mơ hồ nghĩ, những điều ấy không chắc vui nếu không nói rằng đau khổ.  Khác với Phụng, Mẫn cầm điếu thuốc trong cái thản nhiên âm thầm, như thể điếu thuốc cũng là những thời kinh Mẫn hằng tụng niệm sáng tối mỗi ngày.  Mẫn không còn cái dáng vẻ của một nhà sư lúc mới về lại với cuộc đời, nhưng dấu ấn của những ngày tháng sống cùng thầy Độ nơi chùa như chẳng hề phai lạt.  Nó chỉ ẩn mình nhường cho cuộc sống của đời thường được phô diễn múa may.  Bóng phật đài như bàn tay Như Lai nhảy hoài không ra khỏi, và có lẽ Mẫn không hề muốn ra khỏi.  Tuyền tự hỏi, một người quen với khói hương thành kính có thể nào tận hưởng những cuộn khói hồng trần?  Ranh giới giữa hai làn khói ấy vô hình, nhưng bước qua rồi là hết đường lui gót.  Mẫn có cảm nghĩ gì khi thoắt quay lại thấy mình đã không còn là người của cửa Phật?  Những phút rảnh rang sau vườn của Phụng và Mẫn hai bên hàng rào dẫu ít oi ngắn ngủi nhưng đầy vẻ tương đắc, Tuyền ngạc nhiên thú vị nghĩ, chính cái bạo dạn hồn nhiên của Phụng đưa bước đời của Mẫn thêm xa, và sự trầm tĩnh của Mẫn ghì bớt tính xông xáo háo thắng của Phụng.  Một tình anh em tréo nghoe không ngờ tới.


Xe ôm vấp một vạt đường hơi gồ lên làm Tuyền giật mình.  Đã đến chợ.  Chợ ngày 30 ồn ào vội vã, tiếng trả giá với tiếng nèo giá như nhanh hơn một nhịp của những buổi chợ thường, mọi món hàng đều được chào mời với cái đáo hạn của ngày cùng năm tận.  Có một mùi gì đó ấm áp trong không gian mà Tuyền không thể định được là mùi gì.  Là mùi hoa lẫn với bùn đất, là mùi phân gà vịt vương trong những cọng lông mỏng nhẹ bay bay, là mùi tôm khô cá khô khai khai mằn mặn, là mùi tanh tôm cá nơi góc chợ lầy lội, là mùi những thớt thịt bò thịt heo ôi ôi phơi trong nắng, là nước hoa của các bà các cô…?  Tuyền đứng tần ngần không hiểu được vì sao những cái mùi trời ơi ấy lại lọt vào mũi mình, tại sao những âm thanh hỗn loạn ấy lại lọt vào tai mình, và nhất là tại sao những thứ lãng xẹt ấy lại mang cho Tuyền cảm giác ấm áp thân quen.  Tại Tuyền đã sống trong cái hỗn loạn ấy mấy mươi năm nay?  Tại Tuyền đã đi chợ cả chục ngàn ngày?  Sao bây giờ Tuyền mới nhận ra?  Những thứ đó đâu phải là tiêu biểu cho những gì Tuyền hằng nghĩ là “quê nhà”?

Tuyền mua hai bó huệ và một bó mai, nhưng phải gửi lại hàng hoa để đi sâu hơn vào chợ mua các thứ khác cho những mâm cơm cúng ba ngày Tết.  Nghĩ đến mình phải một mình thanh toán những món sẽ nấu làm Tuyền ớn, Tuyền sẽ sớt phần lớn các món ăn cho Nhàn để cúng quảy và ăn trong ba ngày Tết với cái gia đình đã thôi quạnh quẽ.  Nhàn đã qua ở bên nhà họa sĩ Dũng, sau khi đưa được cô Đào về với hai anh em.  Chỉ một mâm cơm cúng gia tiên với vài cô bác quanh xóm chứng giám, hai người đã sống êm ả thắm thiết bên nhau như đôi tình nhân mới.  Nhàn vẫn gọi “thầy Dũng,” và họa sĩ vẫn “tôi, em.”  Cô Đào chỉ còn là một bà già khờ khạo, sống dật dờ trong mớ ký ức ngày xưa còn sót lại.  Mọi sự cứ như khói nhang Mẫn hằng ngày cắm trên bàn thờ – nhẹ nhàng quấn quyện và biến chuyển dạng hình tùy cơn gió nhẹ đưa.  Chỉ riêng khói nhang của Tuyền là lòng vòng lấn cấn, trong cái lòng trống rỗng mà lại rất ngổn ngang.

Tuyền phải gọi tắc xi về vì đã mua khá nhiều thực phẩm hoa trái.  Làm cơm cúng mời các cụ về ăn Tết xong thì đã quá trưa, Tuyền tách hai nhánh mai ra sau vườn cắm mộ anh Lâm.  Tuyền nhận ra về sau này Tuyền thường ở sau vườn hơn là ngồi cái chỗ ngồi cố cựu trong nhà – chỗ đợi chờ và chỗ ngưỡng tôn một người luôn lãng quên Tuyền.  Trời trong và sáng rạng, cái nóng bức làm Tuyền thấy buồn ngủ, Tuyền ngó tìm xem chiếc võng có bị nắng soi.  Nhìn chiếc võng không nhẹ lay theo gió Tuyền tự cười mình lẩm cẩm – võng mắc dưới hai gốc cây khá lớn không thể bị nắng chiếu. Nhưng trước khi Tuyền kịp hạ mình vào võng, thân cây nhỏ nâu biếc thấy khi sáng lấp ló nơi góc mắt, bên cạnh gốc soài.

“Trời đất!” Tuyền thầm kêu.  Cây đào, cây đào của xứ lạnh, sao Mẫn trồng được trên đất nóng hạn này?  Tuyền nhìn lên, thì ra tấm lưới xanh chăng cao khỏi hàng rào là để lược bớt nắng chói chan, phụ với bóng mát của gốc soài hầu mong giữ đất của đào được ẩm mát.  Trời bất chợt tối sầm rồi những hạt mưa rơi nhanh trước khi Tuyền kịp tìm cái gì, chỗ gì để che mưa.  Trong phút chốc tóc Tuyền ướt đầy những giọt nước mát, và tấm áo đã dán sát người.  Thì cứ xem cho xong, Tuyền lại gần sát cành đào.  Những cái nụ be bé như hạt bắp hồng rung rinh dưới giọt nước trong.  Hoa đào, năm nay Tuyền sẽ được thấy hoa đào.  Những giọt nước mưa thấm vào da, Tuyền thấy cái lạnh nhè nhẹ lan tỏa và mọi lỗ chân lông như mở ra cùng với cây, hoa, đón phút vui bất chợt gieo xuống tự trời.  Hơi đất nóng nồng lên trong cơn mưa vội, cái mùi âm ấm cay cay.

Nỗi vui tràn ngập lòng, Tuyền ngạc nhiên thấy nỗi vui ấy như một mầm cây đã mọc trong lòng mình sau bao năm bị ủ sâu dưới những u mê giằng xé của cuộc đời.  Chỉ là một cây đào, chỉ là những nụ hoa nho nhỏ xinh xinh, sao nỗi vui lớn như hạnh phúc, và sao cảm xúc ấy đến với Tuyền quá dễ quá trọn đầy?  Tuyền bật khóc.  Tuyền cảm tạ những khổ đau của chuỗi ngày qua, bởi giờ đây khi thức giấc bên một chỗ trống trên giường Tuyền đã quá quen với mọi điều mất mát.  Tất cả những gì hằng khiến Tuyền đau lòng thắt thẻo giờ chỉ là không.  Không có chỗ trũng của một tấm thân cũ gây nỗi nhớ, không một làn hơi quen làm mình phải lao đao.  Tuyền đã là một thân xác rỗng không, sống chỉ bằng hình ảnh và cuộc sống rất riêng của anh Lâm.  Mọi niềm yêu đã có chỉ là những tầng rêu dầy lên với thời gian bám đầy óc tim xương máu, để khi anh Lâm mất đi thì rêu ấy cũng rã tan cùng tro bụi.  Những đau khổ đã qua chỉ còn là ảo mộng khi Tuyền cảm được cái mát của giọt mưa này, khi Tuyền thấy được cánh hoa đào như đang se sẽ mơ hồ tách ra đón làn gió tạt.  Cuộc sống nhẹ như hơi gió, sao Tuyền mãi cắm đầu ôm lấy bão giông.  

Anh Lâm, em đã yêu anh, kiếp sau chắc vẫn cứ yêu, có lẽ còn yêu nhiều hơn trước.  Nhưng em biết em sẽ yêu anh như anh là anh và em là em, là em – biết sung sướng với nụ đào rung rinh dưới mưa.  Anh Lâm, biết có còn kiếp khác để em có thể yêu anh cách vẹn toàn với một thân phận vẹn toàn, biết em còn dịp để hiểu những đau đớn hân hoan của anh-không-có-em.  Anh Lâm…  Tuyền ngửa mặt, những giọt nước mắt như chen lấn với mưa, Tuyền thấy thân mình run và lồng ngực thắt lại dù Tuyền chỉ muốn mỉm cười khi bắt gặp nụ đào.  

Một tiếng động khẽ, rồi một bóng nâu bung qua hàng rào.  Mẫn đã đến sát bên Tuyền, ánh mắt chăm chú.  Đây là lần đầu tiên Mẫn đứng gần như vậy, và cũng là lần đầu tiên Mẫn nhìn thẳng vào mắt Tuyền.  Không còn là ánh mắt hoang dại sâu như giếng buồn, Tuyền chợt thấy ra Mẫn có hai hàng mi dầy cong và ánh mắt ấy nửa ray rứt thiết tha nửa vương chút nhân từ nhẫn nại.  Mẫn xoay vai Tuyền ôm sát mái tóc ướt vào lòng.  Mưa lất phất rơi trên tấm áo nâu.  Hơi ấm nơi bờ vai xương một lần nữa khêu cái cảm xúc lúc đối diện sự sống thô sơ của hòn đất giọt mưa.  Tuyền vụt nhớ nụ cười tinh nghịch trong veo của Phụng khi từ giã Mẫn về lại trời Tây, tới lời con nói khi đưa Tuyền lên máy bay về lại quê nhà: “…bố bây giờ mới chết, chứ mẹ thì như đã chết từ lâu.  Có còn bao nhiêu thời gian, mẹ chờ ai sống hộ mình?”  Tiếng Mẫn nghe văng vẳng xa xa, tưới cây bằng nước đá lúc khuya và buổi sớm mai nó mới sống được.  Có lẽ ngày mai đào sẽ nở.

Lưu Na
11051016

Ý kiến bạn đọc
26/01/201710:13:35
Khách
Nhân vật Tuyền- người goá phụ được tác giả khai thác hết cái nội tâm bên trong trống rỗng mà lại rất ngổn ngang. Giữa một nếp sống buồn tẻ cố giữ chặt bằng nhang khói hoài niệm và một phân vân sâu kín tràn ngập hạnh phúc, Tuyền sẽ chọn bên nào?
..."Mọi sự cứ như khói nhang Mẫn hằng ngày cắm trên bàn thờ – nhẹ nhàng quấn quyện và biến chuyển dạng hình tùy cơn gió nhẹ đưa. Chỉ riêng khói nhang của Tuyền là lòng vòng lấn cấn, trong cái lòng trống rỗng mà lại rất ngổn ngang."
Trong khi Mẫn- người hàng xóm trẻ hơnTuyền đến chín tuổi được tác giả tiết kiệm ngôn từ, chỉ tả những hành động âm thầm nhưng vững chãi. Cái cách của người xuất gia, điềm đạm và tinh tế và nhất là tình cảm dành cho Tuyền bao năm tháng không hề lạt đi mà lại luôn đem đến những mới lạ, ngỡ ngàng như hé mở của nụ đào hồng, tươi mới...
Thủ tiết thờ chồng. Những gì chúng ta thấy rất bình thường ở người phụ nữ Việt. Một quan niệm Nho Giáo có còn cần thiết không? Tôi thích hình ảnh diễn tả khói nhang của nhà văn Lưu Na. Hình ảnh ấy là một hiện thực sống động như cái vòng lẩn quẩn không thoát được của một cuộc đời lẻ loi, cam chịu và tẻ nhạt. Người ta vẫn cần bước tới phía trước dù khổ đau vẫn đeo bám- sao không sống cho thật VỚI mình và CHO mình?
Và như chợt thức giấc, Tuyền nhớ lại lời của Phụng, đứa con gái Nàng:
..."“…Bố bây giờ mới chết, chứ mẹ thì như đã chết từ lâu. Có còn bao nhiêu thời gian, mẹ chờ ai sống hộ mình?”

Bạn sẽ phải hỏi thật lòng mình một ngày nào đó: -Tôi chờ ai sống hộ tôi?.........
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.