Hôm nay,  

Đêm đầy sao

10/02/201713:36:00(Xem: 10629)
Đêm đầy sao
blank
​  

Đêm tháng Sáu 1889 ở miền Nam nước Pháp, Van Gogh ngồi bất động trong căn phòng ở Nhà thương điên thuộc tu viện St Paul. Tu viện trống trải, Van Gogh cô độc ở căn phòng nhìn ra ban công hướng Tây. Từ đó ánh mắt của người họa sĩ trải dài xuống chân đồi xa thẳm những cánh đồng oải hương, diên vĩ, những cây bách vặn vẹo...Từ căn phòng đó buổi sáng đi lên những tia nắng ​thì thào, buổi chiều lặng lẽ những giọt vàng rơi rớt. ​Và buổi đêm ​thì ​lấp lánh sao, những ánh sao lạc lõng ch​ó​i lòa. Đêm như cuồng quay ảo giác. Đêm xoay tròn ảo mộng. Thế là Van Gogh vẽ The Starry Night – Đêm Đầy Sao. 

 
Ông vẽ một cách cuồng điên, vẽ như cố trải bày​,​ vẽ như cố quên đi. Nhưng không sao quên được cái buổi chiều hỗn loạn, đầy bạo động, máu me và khó hình dung nỗi. Ông đã cắt vành tai trái của mình. Vì hành vi này mà người đời cho ông bị điên và ông vào nơi này.

    

Van Gogh nhớ lại những ngày thơ ấu ở Hà Lan. Mười lăm tuổi phải bỏ học để đi làm trong một cửa hàng bán tranh, sau đó thường xuyên đi khắp Châu Âu, ông thấy mình trở nên trầm uất và tìm vào tôn giáo như cứu cánh. Van Gogh trở thành giáo sĩ Tin Lành một thời gian ngắn ở miền Nam nước Bỉ. Vẫn ngập trong cô đơn và sức khỏe suy yếu, ông trở về quê nhà. Nhập học được 4 tháng ở Viện Hội họa Hoàng Gia (Bỉ) thì nghỉ học. Van Gogh bắt đầu lao vào giá vẽ. Cuộc đời họa sĩ của ông bắt đầu từ những trang vải bố hoàn toàn nhờ sự giúp đỡ và chu cấp tài chánh từ người em trai ruột Theo. Chỉ có Theo là người duy nhất mà Van Gogh tìm được sự giao tiếp và liên lạc thân thiết cho đến cuối đời. Theo là người em, người bạn duy nhất trong đời sống lẻ loi cô độc và bất hạnh trong đường tình của người họa sĩ thiên tài này. Để dành tiền cho sơn dầu và đồ vẽ, Van Gogh ăn uống thiếu thốn, chỉ với bánh mì và cà phê, tất nhiên là nhiều rượu. Sức khỏe và tinh thần ngày càng ​suy sụp. 

Van Gogh vẽ và tìm kiếm lối đi riêng trong nghệ thuật như bao người họa sĩ thời ấy. Những năm trước đó Van Gogh đã vẽ thật nhiều, phần lớn là tranh tỉnh vật. Những tông màu tối và u uất, phản ánh những mối tình khổ lụy. Mối tình ngắn ngủi với cô gái Margot Begemann ​lớn hơn ​ông ​10 tuổi. Gia đình 2 bên không chấp nhận, Margot uống thuốc tự tử nhưng được Van Gogh đưa vào bệnh viện kịp thời cứu sống. Hay là chuyện tình đơn phương với cô chị họ Kee Vos-Stricker lớn hơn Van Gogh 7 tuổi góa chồng và có con trai 8 tuổi. Van Gogh cầu hôn và bị từ chối thẳng thừng. Tuy vậy Van Gogh cứ đeo đuổi. Một đêm tháng 11, 1881, Van Gogh đến nhà Kee, tay đặt trên ngọn lửa đèn dầu và nói sẽ không rút tay ra chừng nào gặp được Kee. Ông chú thổi tắt đèn và cương quyết từ chối hôn nhân vì Van Gogh quá nghèo để lập gia đình. Tháng Giêng năm sau thì ​V​an Gogh gặp Sien Hoornik một cô gái điếm không nhà đang có bầu trên đường phố. Van Gogh đem cô ta cùng đứa con gái nhỏ về nhà. Từ đó Sien làm người mẫu và có nơi tá túc. Cả hai đều ngh​ĩ​ tới tương lai vợ chồng và gầy dựng hạnh phúci bằng tranh vẽ. Thế nhưng sức khỏe Sien tàn tạ vì rượu và bệnh hoạn, gia đình Van Gogh thì không chấp nhận con dâu làm điếm, lại nghi rằng cô ta đang có thai với Van Gogh. Dưới nhiều áp lực, Van Gogh bỏ 2 mẹ con cuối năm 1883. Sien trở lại đứng đường phố. (Vài năm sau thì cưới một thủy thủ và tự tử ở cảng Rotterndam 1904.)

 

Cô đơn và càng nghèo túng, Van Gogh chỉ còn biết vùi mình vào tranh vẽ. Trường phái ấn tượng đã phổ biến và các họa sĩ hàng đầu thời ấy đã tiên phương làm nên nét đặc thù cho nghệ thuật. Tất nhiên là Van Gogh bị lôi cuốn và bằng thiên tài tiềm ẩn, ông đã sử dụng phong cách của riêng mình qua "bút pháp" vẽ từng nét cọ ngắn. Những âm thanh sột soạt khi vẽ như quất vào vải bố những vết cứa, ngồn ngộn âm ba. Những vết cọ ngắn khi ngang, khi dọc, khi nghiêng, khi xoay tròn. Các đường nét đều gồ ghề. Các bầu trời, mảnh đất, cánh đồng, da mặt đều mộc thô trần trụi, góc cạnh. Không có chút mềm mại ở cánh hoa, ngay cả bầu trời, làn gió. Mọi cái xô dạt cảm giác, mọi cái làm rún rẫy ánh nhìn, mọi cái làm nhói đau tâm tưởng. Chính đó là nét ấn tượng mạnh mẽ mà Van Gogh tìm thấy. Hơn thế, những mảng màu tươi rói ​bổ sung được mạnh bạo sử dụng không run tay. Màu vàng, vành chanh, vàng mỡ gà, vàng nắng cháy...tất cả rực lên trong mặt trời cuồng quay. Trong đêm tối thì các màu xanh cuồn cuộn đổ về, xanh đậm, xanh nhạt, xanh lơ, xanh thẫm và cuốn xoay vào các đám mây trắng mờ trăng, các vì sao vàng lấp lánh...Về bố cục thì Van Gogh lại dành cho đường chân trời thật hẹp, hầu như sát trên cao, để phần lớn tiền cảnh bức tranh mặt đất, cánh đồng, căn phòng...chạy dài trải rộng trước mắt người xem.

  

Van Gogh mến mộ Gaugin một họa sĩ người Pháp tài hoa nổi tiếng đương thời vô cùng. Nhiều lần thư mời Gauguin đến nhà chơi kết bạn và triển lãm tranh. Sau cùng thì Gauguin xiêu lòng và đến Arles vào tháng 10, 1888 sau khi được em trai Theo chu cấp tiền bạc và chi phí. Cả hai cùng vẽ với nhau trong 2 tháng thì thường xuyên cãi vã. Gauguin chừng như cao ngạo và khống chế. Van Gogh thì lo sợ Gauguin sẽ bỏ rơi và tình bạn sẽ đổ vỡ. Sự việc xãy ra như thế nào hôm ấy không ai biết rõ, ngoại trừ Van Gogh và Gauguin. Chỉ biết là sau khi cãi vã Van Gogh trở về phòng, trong đầu âm vọng tiếng nói xa lạ và Van Gogh đã dùng dao cạo cắt vành tai trái, máu chảy rất nhiều. Ông tự băng bó khăn trùm ngang đầu, gói vành tai bị cắt vào giấy và mang đến cho người con gái quen biết ở nhà thổ. Sáng ngày sau cảnh sát đến nhà thấy Van Gogh bất tỉnh và chở vào bệnh viện. Vành tai được đem tới nhưng quá trễ để gắn vào. Từ đó Van Gogh thường xuyên ám ảnh bởi ảo giác thực hư. Ông được bác sĩ Felix Rey đưa về nhà mình chăm sóc, Van Gogh vẽ tặng bác sĩ bức chân dung, vị bác sĩ không ưa thích gì lắm bức tranh, dùng nó làm che chuồng gà, rồi sau đó cho đi. (Năm 2016 bức tranh được treo ở Viện bảo tàng nghệ thuật Pushkin và giá trị ước chừng 50 triệu đô la.)

Hai tháng sau Van Gogh tình nguyện vào nhà thương điên. Ông viết thư cho em trai kể rằng: Đôi khi tâm trạng thay đổi và đau khổ không diễn tả được, thi thoảng những mảng mù của thời gian và thời khắc bạo tàn dường như xé toan ra tức thì. Trong khoảng thời gian 1 năm ở tu viện, Van Gogh đã đạt đến độ chín muồi của sáng tác. Tháng Năm 1890, Van Gogh rời tu viện trở về Bắc nước Pháp để sống gần với em trai. Ông càng vẽ nhiều, có khi 3 bức một ngày. Những cánh đồng lúa mạch vàng dạt xô trong gió miền Bắc nước Pháp đã cuốn hút tâm hồn ông. "Những cánh đồng mênh mông dưới bầu trời cuồng nộ. Chúng như bày tỏ nỗi buồn và niềm cô đơn cực kỳ. Những tấm vải bố sẽ nói giùm tôi."

  

Ngày 27 tháng 7, 1890 ở tuổi 37, Van Gogh bắn vào ngực mình. Không ai biết rõ là Van Gogh tự bắn mình trong cánh đồng lúa chín vàng hay trong một trại vắng. Một mình ôm vết thương Van Gogh lê bước về nhà. Hai vị bác sĩ đến chăm sóc nhưng không phải là bác sĩ giải phẩu để lấy viên đạn ra. Họ để ông nghỉ trong phòng riêng. Sáng hôm sau người em trai Theo vội đến gặp thấy ông trên giường lẻ loi với ống vố. Và khuya hôm 29 tháng 7 thì Van Gogh ra đi vĩnh viễn. Câu trăn trối bên tai Theo là: Nỗi buồn sẽ còn mãi.  

  

Những bức tranh của Van Gogh dần dà nổi tiếng sau khi ông mất​, nhờ công lao của người em dâu. ​Hơn 2,100 tác phẩm, bao gồm 860 bức sơn dầu​, trong đó khoảng 100 tuyệt tác trong thời gian khủng hoảng tinh thần lúc cuối đời. Van Gogh là họa sĩ người Hà Lan vĩ đại nhất sau Rembrandt. Tranh của ông được xem là một trong những họa sĩ đắt giá nhất thời đại. Bức Hoa Diên Vĩ (Irises) được bán giá $53.9 triệu, bức Chân Dung Bác Sĩ Gachet bán $82.5 triệu đô... Viện Bảo Tàng Van Gogh ​do con trai Theo thừa hưởng bộ sưu tập và khánh thành năm 1973 ở Amsterdam trở thành nơi thu hút gần 2 triệu người xem năm 2015. 

 
Những người xa lạ trong cõi nhân gian đến xem tranh ông, xem những nhát cọ tang bồng trên mảnh đời bất hạnh trong tình yêu, xem những cánh đồng lúa vàng xô dạt nỗi cô liêu và xem bầu trời đầy sao. Những vì sao vàng lấp lánh nỗi buồn. Nỗi buồn còn mãi trên phận người ​điên dại. Như ca khúc Starry Night của Don Mclean sáng tác năm 1971 ngợi ca về ông:

 

Đêm đầy sao
Tô lên bảng màu xanh và xám
trong tháng ngày hè 
bằng ánh mắt từ đáy sâu nội ngã
Những bóng dáng trên đồi
Vẽ cây cối và hoa thủy tiên
hứng gió rét mùa đông
trên sắc màu của nền đất vải phủ tuyết

Đêm đầy sao
Những đóa hoa như lửa cháy sáng lòa
Những đám mây xoáy tròn trong màu tím mù sương
phản ánh trong mắt một màu xanh đồ sứ
Màu chuyển sắc độ
Những cánh đồng lúa mạch như hổ phách
Những khuôn mặt hằn nét nhọc nhằn
như dãn ra dưới bàn tay họa sĩ

Đêm đầy sao
Những bức chân dung trên hành lang vắng
Những mặt người không khung, trên tường không tên 
Với ánh mắt nhìn vào trần gian khó quên
Giống như người xa lạ mà ta vừa gặp
Những kẻ nghèo hèn trong tấm áo tả tơi
Những mũi gai bạc từ cánh hồng huyết dụ
úa tàn v​ỡ​​ ​nát trong tuyết đầu mùa

  

Nhân gian không hiểu và lắng nghe 
Và có lẽ mãi mãi không bao giờ hiểu.  

 
Sean Bảo

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.