Hôm nay,  

Sắc Lệnh Thi Hành Luật Di Trú

3/1/201700:00:00(View: 8718)

Vào ngày 20 tháng 2, Bộ Trưởng Bộ Nội An mới nhậm chức, Ông John Kelly, đã gởi ra hai công văn đến các cơ quan hữu trách có trách nhiệm thi hành luật di trú nhằm đưa ra các chỉ dẫn thi hành hai sắc lệnh của Tổng Thống Donald Trump được Tòa Bạch Ốc ban hành ngày 25 tháng 1 liên hệ đến chính sách mới trong việc thi hành luật di trú hiện hành tại Hoa Kỳ.

Công văn thứ nhất mang tựa đề “Thi Hành Luật Di Trú Để Phục Vụ Quyền Lợi Quốc Gia” (Enforcement of the Immigration Laws to Serve National Interest), gồm 6 trang, và một công văn khác mang tựa đề “Thi Hành Chính Sách Của Tổng Thống Nhằm Gia Tăng các Chương Trình Thi Hành Luật Di Trú” (Implementing the Presidents Border Security and Immigration Enforcement Improvements Policies), gồm 13 trang. Cả hai công văn có nhiều điều khoản thể hiện sự thay đổi trong chính sách thi hành luật trong khuôn khổ luật di trú hiện hành.

Cho tới giờ này, Quốc Hội vẫn chưa thông qua thay đổi nào trong luật di trú. Tuy nhiên, chính quyền Tổng Thống Donald Trump đang tiến hành nhiều thay đổi tạm thời trong khuynh hướng và chính sách nhằm thi hành luật di trú trong khuôn khổ thẩm quyền của ngành hành pháp.

Các điều khoản chính trong Công Văn Thi Hành Luật Di Trú

1. Giữ nguyên hai sắc lệnh nhằm bảo vệ trẻ em nhập cảnh vào Hoa Kỳ lúc còn nhỏ. Đoạn văn đầu tiên trong công văn đã nhấn mạnh việc giữ nguyên các sắc lệnh nhằm tạm thời miễn trục xuất đối với những người nhập cư bất hợp pháp vào Mỹ lúc còn là trẻ em ban hành tháng 6 năm 2012 và đặc miễn đối với các người nhập cư bất hợp pháp lúc còn là trẻ em hay bố mẹ có con nhỏ là thường trú nhân hay Quốc Tịch Mỹ ban hành vào tháng 11 năm 2014.

Đây là hai sắc lệnh này được ban hành dưới thời Tổng Thống Barrack Obama, theo đó, các người trẻ này vẫn có thể tiếp tục đi học, đi làm và không bị trục xuất. Tuy nhiên những người trẻ này vẫn không có thẻ xanh, được nhận trợ cấp học bổng liên bang, hay tương lai cũng không có gì chắc chắn là được hợp thức hoá tình trạng di trú.

2. Tiến hành thuê mướn 10,000 nhân viên biên phòng để thi hành chính sách kiểm soát biên giới và trục xuất các di dân bất hợp pháp. Tuy nhiên, kế hoạch thuê mướn này vẫn cần phải được phê chuẩn tài khóa bởi Quốc Hội, huấn luyện và chuẩn bị các cơ sở hành chánh để điều hành thêm thành phần nhân lực này.

3. Đặt ưu tiên trục xuất những người di dân bất hợp pháp thuộc các diện như (a) có án phạm pháp; (b) đã bị buộc tội phạm pháp cho dầu chưa bị kết án; (c) đã có những hành vi mà có thể bị kết án hình sự; (d) có hành vi gian dối đối với các cơ quan chính phủ; (e) lạm dụng các chương trình trợ cấp chính phủ; (f) đã có lệnh trục xuất; hay (g) có thể là mối nguy hại cho an ninh công cộng hay an ninh quốc gia.

Ngôn ngữ liệt kê các ưu tiên này rất là mơ hồ và không rõ ràng, ví dụ như không nêu rõ tội danh hay mức độ nghiêm trọng, những hành vi phạm pháp mà chưa bị kết án vẫn được coi là có án phạm pháp, hay làm sao định nghĩa được thế nào là nguy hại cho anh ninh quốc gia mà không phải là phạm pháp? Nếu theo các ngôn từ mơ hồ này thì hầu như người di dân không có giấy tờ nào cũng có thể cũng có thể được coi là phạm pháp vì chính hành động ở lại Hoa Kỳ quá hạn, vượt biên giới hay nhập cảnh bất hợp pháp là một hành động phạm pháp.

4. Chấm dứt chương trình ưu tiên trục xuất những di dân có hồ sơ phạm pháp nghiêm trọng được ban hành dưới thời Tổng Thống Obama, đồng thời phục hồi hay gia tăng các chương trình khởi sự thủ tục trục xuất thẳng từ các trại giam và cấp thẩm quyền cho các nhân viên cơ quan công lực địa phương để trở thành nhân viên công lực thi hành luật di trú.

Điều khoản này mở đường cho các nhân viên di trú có thể tiến hành trục xuất hầu như bất cứ người di dân bất hợp pháp nào, chứ không hẳn là các thành phần phạm pháp nghiêm trọng nhất. Dưới thời Tổng Thống Obama, cộng đồng di dân đã phiền trách là chính quyền đã tiến hành trục xuất nhiều người di dân nhất so với các đời tổng thống trước đó. Tuy nhiên các thành phần được ưu tiên trục xuất phần lớn nhắm vào các thành phần tội phạm nghiêm trọng.

Một điều khoản khác trong công văn này là mở lại chính sách kêu gọi các cơ quan cảnh sát địa phương phải thông báo đến cơ quan di trú các trường hợp người di dân bị giam giữ trong các nhà tù địa phương vì phạm pháp. Chương trình này đã bị nhiều cơ quan cảnh sát địa phương tại nhiều tiểu bang tìm cách từ chối không thi hành vì họ không muốn tiếp tay với cơ quan di trú liên ban trong lãnh vực này. Tuy nhiên, nhiều cơ quan cảnh sát địa phương khác vẫn muốn tích cực tham gia chương trình này.


Một điều khoản khác còn kêu gọi sự hợp tác của các cơ quan cảnh sát địa phuong để thi hành luật di trú theo điều khoản 287(g) của Đạo Luật Di Trú. Đây là chương trình đã gây tranh cãi tại nhiều địa phương trong nhiều năm qua vì nhiều cơ quan cảnh sát địa phuong không muốn trở thành công cụ cho chính quyền liên bang để thi hành luật di trú. Trong khi đó, nhiều cơ quan chính quyền địa phuong sẵn sàng hợp tác với chính quyền liên bang để thi hành luật di trú.

5. Cho phép thẩm quyền các nhân viên di trú tiến hành bắt giữ những di dân đã vi phạm luật di trú. Điều khoản này chỉ nói một cách mơ hồ là cho phép các nhân viên sở di trú có thẩm quyền bắt giữ bất cứ ai bị tình nghi là đã vi phạm luật di trú, có nghĩa là bị tình nghi là di dân bất hợp pháp. Nếu điều khoản hợp tác với các cơ quan cảnh sát địa phương theo điều khoản 287(g) của Đạo Luật Di Trú, thì các nhân viên công lực địa phương cũng có thẩm quyền bắt giữ bất cứ ai bị tình nghi là vi phạm luật di trú.

6. Thâu thập các dữ kiện về người di dân bất hợp pháp

Một điều khoản ít được nhắc đến trong công văn này là thành lập thêm một cơ quan nhằm thâu thập các dữ kiện nhằm giúp đỡ các nạn nhân bị thiệt hại bởi người di dân, thâu thập tiền phạt vạ đối với người di dân, cập nhất các chính sách liên hệ đến quyền riêng tư của người di dân và báo cáo thường xuyên về thống kê người di dân bị bắt giữ.

Công Văn về Thi Hành Chính Sách Của Tổng Thống

Trong cùng ngày, Bộ Nội An đã công bố một công văn khác nhằm công bố các khuynh hướng mới trong chính sách về di trú dưới thời Tổng Thống Donald Trump. Công văn này có nhiều điều khoản bao quát hơn nhằm phổ biến các chính sách mới về vấn đề di trú.

1. Đầu tiên trong công văn này là chính sách ưu tiên chính sách giam giữ người di dân bất hợp pháp và chỉ thả tự do những trường hợp bắt buộc như (a) theo qui định bắt buộc bởi luật pháp; (b) được lệnh thả tự do hay có quyền lưu lại Hoa Kỳ; (c) cứu xét khắc khe các trường hợp cho nhập cảnh tạm thời (parole); hay (d) khắt khe hơn trong tiến trình cứu xét đơn xin tỵ nạn.

Chính sách giam giữ này nói thì dễ, nhưng muốn thực hiện được cần phải có thêm trại giam, nhân viện quản trị trại giam, toà án, chánh án, luật sư hay nhân viên di trú để cứu xét tiến trình xét xử các hồ sơ trục xuất. Xong thủ tục xét xử rồi mới đến tiến trình trục xuất để giảm bớt tình trạng quá tãi tại các trại giam.

2. Tiến hành thuê thêm 5,000 nhân viên kiểm soát biên giới. Số nhân viên này là thêm vào số 10,000 nhân viên di trú được đề cập đến trong công văn kia. Số lượng nhân lực mới này cần phải được Quốc Hội phê chuẩn tài khoản mới có thể thực hiện được.

3. Gia tăng chương trình hợp tác với các cơ quan công lực địa phương để thi hành luật di trú. Chương trình này sẽ gặp sự chống đối từ nhiều địa phương hay tiểu bang đã tỏ ra chống đối các biện pháp mạnh đối với người di dân và muốn bảo vệ người di dân cho dầu là chống lại chính phủ liên bang.

4. Nghiên cứu tình hình an ninh trong các vùng biên giới với Mễ Tây Cơ;

5. Nghiên cứu kế hoạch xây dựng bức tường dọc theo biên giới với Mễ Tây Cơ. Thẩm quyền xây bức tường này hiện đã có trong đạo luật Cải Tổ Luật Di Trú năm 1996 dưới thời Tổng Thống Bush. Tuy nhiên, tài khoản xây dựng bức tường này phải được phê chuẩn bởi Quốc Hội.

6. Nới rộng chương trình trục xuất nhanh chóng những di dân bị bắt trong vùng biên giới lên tới 2 năm sau khi nhập cảnh. Chương trình trục xuất nhanh chóng dưới thời Tổng Thống Obama giới hạn thẩm quyền này đối với những di dân đã nhập cảnh trong vòng 14 ngày hay bị bắt trong vòng 100 miles cách biên giới, ngoại trừ các trường hợp (a) trẻ em không đi cùng bố mẹ, hay (b) nộp đơn xin tỵ nạn chính trị.

7. Trục xuất nhanh chóng hay ngay lập tức đối với những di dân trong vùng biên giới với Mễ Tây Cơ, ngay cả trong thời gian chờ đợi ra tòa án di trú.

8. Khắt khe hơn đối với thủ tục (a) xét đơn xin tỵ nạn, (b) xét hồ sơ cho phép nhập cảnh tạm thời (parole), hay (c) xét hồ sơ các trẻ em không có thân nhân.

9. Báo cáo thường xuyên về tình trạng di dân có hồ sơ phạm pháp.

Khó có thể biết được hiệu quả hay tác động của việc thi hành các công văn hay sắc lệnh này. Tuy nhiên có một điều chắc chắn là các bản văn này đã tạo nên nhiều sự hoan mang và lo sợ trong các cộng đồng di dân. Đây chỉ là bước đầu tiên trong chiều hướng thay đổi luật di trú sắp tới. Các thay đổi được đề ra trong các công văn hay sắc lệnh tổng thống mới được đưa ra cần phải có một thời gian mới thực hiện được, tuy nhiên khó biết được là thời gian đó sẽ là bao lâu.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.