Hôm nay,  

Hoạt cảnh

01/06/201710:29:00(Xem: 7800)
Hoạt cảnh  

Truyện ký
TT Diệu Tâm

  blank

 
Chuyến bay Air France rà xuống, chạm mặt đất rồi dừng lại. Tôi đã trở về quê hương mình rồi. Chỉ chừng ấy suy nghĩ mà bồi hồi đến nỗi cứ mãi nhìn phía dưới mặt đất, chưa chịu đứng lên lấy hành lý trên ca-bin. Người khách bên cạnh nhắc khéo.

Mình trở về .                                                      
  

Bao nhiêu năm tưởng nhớ, bao nhiêu năm dài mộng mị với quê nhà. Bỗng nhiên quyết đinh trong chớp mắt, thực hiện ngay, nếu chần chừ e không có dịp khác. Đây là chuyến về thăm quê lần đầu, chuyến độc hành mạo hiểm và phiêu lưu. Sau khi nghỉ làm việc, thoát ra khỏi bận bịu cơm áo hằng ngày, thấy mình nhẹ như gió, muốn đi đâu thì đi, bay đâu thì bay.

Trước tiên đến Hà Nội, bốn ngàn năm lịch sử văn hóa. Tôi mua vé từ sáng sớm đi vịnh Hạ Long, trên cùng chuyến tàu ra vịnh, có một số du khách người nước ngoài.
 

Hạ Long hiện ra như một bức tranh thủy mặc bao la ẩn chìm trong sương mù dày đặc. Non nước này chắc hẳn xưa kia là chốn thiên thai, các tiên nữ sống trong các sơn động kia nay tuyệt tích vì không con cái. Hạ Long ? Theo truyền thuyết xưa, để ngăn chận giặc xâm lấn từ phương bắc theo đường biển, Trời sai một con Rồng lớn xuống giúp dân ta, sau khi chiến thắng, Rồng phun ra nhiều châu ngọc, nay là các thạch động, rồi bay về Trời. Từ đó dân gian đặt tên nơi này là Hạ Long.
 

Bầu trời bắt đầu sáng hơn, mây mù tan dần. Trên boong tàu ngồi  phía trước mặt, thấy một cặp đàn ông già cùng cô gái trẻ. Người đàn ông Á châu, tóc lấm tấm muối tiêu, cô gái đâu chừng rất nhỏ, da mặt trắng trẻo, đôi má tô phấn hồng đậm, tóc ngang vai, cài một chiếc cặp nhựa màu hồng ngộ nghĩnh. Cô mặc chiếc váy đầm bó sát ngắn cũn, cặp chân mập cong cong. Mặc váy ngắn, ngồi đong đưa chân, trông cô bé thơ ngây đáo để.

Mọi người trên du thuyền đang trầm mình vào cảnh giới u mặc huyền ảo, tôi nhìn xuống mặt nước trong xanh ngọc phỉ thúy, soi tận đáy trời. Bỗng nhiên, tôi nghe cô gái  nói " bỏ tay ra, thằng cha này! " .Té ra thằng cha đàn ông đang thò tay vào trong váy đầm cô bé. Có lẻ cha đàn ông không hiểu tiếng Việt nên lại cứ ởm ờ, lần này thấy ông ta đưa tiền cho con bé, rồi kéo đứng dậy. Không biết sao, con bé ngũng ngẵn, không lấy tiền, lại nhét thêm tiền, con bé cũng không chịu và phân bua  " nói đi ra vịnh ngắm cảnh mà cứ đòi vô phòng ngủ, ngủ gì mà ngủ lắm ".  Anh chạy dịch vụ trên tàu còn trẻ, thấy vậy đùa :" Thôi em cứ cầm tiền đi, em không cần thì lấy đưa anh, sao lại chê tiền thế, lá lành đùm lá rách mà em ". Con bé lần này cũng không vừa chi, chanh chua trả lời : " Lá này cũng rách bươm rồi  !" . Đối đáp xảy ra trong chớp mắt. Thiên thai đối mặt với trần ai tục lụy. Thiên thai đẹp, trần ai vui. 
 

  Tuy thế, chuyện vừa xảy ra không làm tôi vui. Đáng lẻ giờ này cô bé phải cắp sách đến lớp học. Sao lại đi theo một người đàn ông đáng tuổi bố, làm gái mua vui ? Trước mắt người khác, cô biết ngượng hay giả vờ ngượng ngùng, hoặc chống đối lại việc bắt ngủ nhiều lần. Tôi không biết, nhưng cách nói năng của cô bé nghe chừng đã dày dạn lắm rồi.

Tiếng máy tàu chạy xình xịch, vòng quanh vịnh. Nhìn qua, họ không ngồi ở đấy nữa.
 

 Một buổi sớm mai đến hẹn với cô bạn mới quen. Đứng trong căn phòng trên tầng gác nhà cô, qua khung cửa sổ hiện ra một bức tranh tuyệt đẹp: Mấy chiếc xe đạp chất đầy hoa từ một nẻo quê nào đó đang di động trên đường. Xe chở đầy hoa vàng, hoa tím, hoa hồng. Dòng xe hoa chầm chậm trẩy về phố chợ trong màn sương lam. Xe chất đầy hoa nên  không thấy người trên xe, tưởng chừng như những "Gánh Hàng Hoa" trong tiểu thuyết  hiện về, đang thức tỉnh thành phố cổ sau giấc ngủ muộn. Hàng hoa khuất tầm nhìn, bức tranh bị xóa, để lại khung cửa trống. Tôi quay vào, thấy cô bạn mời ăn chuối chín vàng, chấm với cốm Vòng ướp trong lá sen xanh . Căn phòng cô treo đầy tranh vẽ, bán cho người phương xa về. Tôi tìm trong đó có chăng một bức tranh vừa bất chợt nhìn thấy qua khung cửa sổ, giản dị mà vô cùng thơ mộng. Chủ nhân của căn phòng bán tranh là một phụ nữ yêu kiều, dáng dấp của Hà Nội còn thanh lịch.

Tôi bay về Huế.
 

Mưa như trút nước khi máy bay đáp xuống mặt đất . Xứ Huế là xứ của mưa mù. Mưa cả trăm năm, cả ngàn năm. Nếu không mưa, Huế không phải Huế. Mưa rơi, tôi không lạnh mà sao thấy ấm áp, có lẻ tiếng mưa ấp ủ chất đầy nhớ thương của mình. Mười ngày ở Huế trong khách sạn, tôi sống như người mộng du. Vì hay nhầm lẫn giữa hai miền biên giới mộng và thực, nên khi thực tan thì mộng đành vỡ.  Ngày đầu tiên tôi đi chợ Đông Ba như hằng ao ước của mình. Nhưng Đông Ba trước mắt giờ đây không phải là ngôi chợ  trong tưởng nhớ. Tôi thất thần như kẻ lạc hồn. Dấu vết ngày ấy không còn sót lại gì, giọng nói của người bán hàng cũng khác, nghe rất lạ tai. Có khi tôi không hiểu họ nói chi.
 

 May mắn sau cùng, tìm thấy một cô bạn gái còn sót lại, thật mừng . Nhà bạn có cây khế ngọt chi chít trái, bạn vẫn còn xinh đẹp. Chồng mất đã lâu, bạn ở vậy nuôi các con khôn lớn và phụng dưỡng người cha già nua . Ngôi nhà bạn như còn lưu giữ mùi hương trầm u mặc, hoang vắng xa xôi.

Dù biết với thời gian, mọi chuyện thay đổi. Nhưng người Việt xa quê, hình ảnh cố hương luôn cố định trong trí tưởng, mà nay người xưa bạn cũ mấy ai còn, lòng thấy trống vắng. Rồi những ngày ở Huế, tôi không muốn đi thăm một nơi nào khác ngoài thăm mộ gia đình, vài người họ hàng xa. Nơi đây không còn lay động những ước mơ, chỉ còn lại những ngôi mộ cổ đầy cỏ khô.
 

Từ trong khách sạn, một sáng thức dậy sớm nhìn xuống đường, một gánh cơm hến đang sửa soạn dọn hàng bán. Khách ăn đang kéo chiếc ghế thấp ngồi chờ, một con bé con đang phụ giúp lăng xăng . Tôi chú ý, nó mặc bộ áo quần cùng màu tươm tất, tóc cột túm ra phía sau gọn gàng. Trời bỗng đổ mưa, màn mưa làm mờ nhạt khung cảnh đang hiện ra dưới mắt. Con bé vội lấy tấm bạt che lên phía gánh hàng. Hai mẹ con di chuyển gánh vào phía bên mái hiên nhà của một công sở. Mấy người khách di chuyển theo. Khách ăn món  cơm hến bình dân này hẳn là dân đi làm việc sớm, giờ này có lẻ chưa có hàng quán nào khác mở cửa. Người ngồi ăn sì sụp ngon lành. Tôi định bụng chốc nữa mình sẽ xuống ngồi ăn như thế, mua một đoại cơm hến, món ăn bình dân rất khó tìm thấy ở quê người. Nhưng nhớ lại tô bún ốc thưởng thức ở một quán bên lề đường Hà Nội tuần trước, vẫn còn làm bụng mình râm ran khó chịu, mỗi ngày phải uống đến ba viên thuốc ngừa tiêu chảy, nên thôi. Đâu khoãng chín giờ, gánh hàng cơm chắc đã bán hết, con bé nhanh tay rửa tô đoại trong một chậu nước, lau khô, thu dọn mọi thứ. Nó còn chịu khó lượm những mảnh giấy trên mặt đất khách ăn vất bừa bãi . Người mẹ đứng dậy với đôi quang gánh nhẹ nhàng trên vai, có lẻ đi về chợ Đông Ba mua rau cỏ chuẩn bị cho sáng sớm mai . Trong màn mưa còn lất phất, con bé lúp xúp chạy theo phía sau. Huế vẫn còn cơ cực.
 

Buổi chiều tôi ngồi trong khách sạn uống cà phê, nhìn ra ngoài mong tìm thấy được một khung cảnh khác, một bức tranh khác. Đường phố bắt đầu xe cộ đông kín, tiếng  còi xe inh ỏi, ai ngồi xe cũng cần phải bóp còi, tiếng còi xe chính là sự tồn tại của họ. Đến giờ tan sở, dân chúng đi làm về. Tôi định ra phố mua một vài tấm lụa Thái Tuấn may áo dài , thấy đông người quá nên chần chừ. Từ ngoài, một đám đàn ông dựng xe máy, tiến vào khách sạn, gặp cô tiếp viên, họ trao đổi vài câu, rồi đi lên lầu theo hướng riêng không có thang máy. Chốc lát sau, một đám con gái môi son má phấn đi vào cũng theo hướng hồi nãy đi lên.

Đường bớt người, mưa tạnh hẳn. Tôi đứng dậy ra phố, nói với cô tiếp viên, tôi ra ngoài khoãng một giờ rồi về lại, có ai đến hỏi bảo ngồi chờ nghe. Luôn tiện hỏi luôn  :

" Hình như trên lầu có tổ chức ca hát hay sao, hồi nãy thấy người ta lên xem". Cô tiếp viên nhìn tôi thắc mắc không hiểu, như chợt nhớ ra, cô cười " Dạ không phải, mấy ông đó có hẹn vui vẻ với nhau". Tôi nhìn chiếc áo dài trắng ngà cô mặc, khen áo cô đẹp.
 

Buổi tối khi trở về phòng xem bảng giá dịch vụ giặt ủi áo quần, tôi chợt thấy giá biểu của dịch vụ "vui vẻ"  tùy thuộc vào số giờ khách hưởng lạc. Điều này cho biết giá cả dịch vụ mãi dâm trong khách sạn này được niêm yết công khai rõ ràng không cần giấu giếm. Hồi chiều đám đàn ông tan sở, chưa về nhà vội với vợ con đang chờ bữa cơm tối bên nhau đầm ấm, họ thích vui vẻ với các em gái , nếu về muộn, vợ lo lắng, có thể câu trả lời : Dạo này công việc cơ quan nhiều chuyện cần giải quyết gấp.

Khách sạn nằm trên con đường thơ mộng có lá me bay ngày xưa, con đường đưa về thôn Vỹ Dạ sương khói mờ nhân ảnh. Dân Huế than : dạo này khách sạn mọc lên như nấm sau mưa, chỗ mô ngỏ mô cũng khách sạn nhà ngủ nhà nghỉ, thiên hạ nhà nước chỉ lo đầu tư vô thứ đó, không thèm mở bệnh viện, trường học cho dân nhờ.
 

 Không còn chi Huế đá vàng.

Bay vào Sàigòn, lặng lẽ về căn nhà cũ trong ngỏ phố .
 

Một buổi chiều, chị bạn đầu ngỏ dẫn ra chợ ăn vặt, chị nói hàng quán ngon đều di cư qua Mỹ hết rồi, nhưng có quán nhỏ này bán đồ Huế ăn được. Trong vòm chợ, gánh hàng gồm hai ba cái bàn sạch sẽ với mươi cái ghế gỗ thấp lè tè, khách ăn chiều, đa số đàn bà. Hàng bán đủ thứ bánh Huế, bột lọc, bánh nậm, bánh ram, bánh ít và bún bò. Cô bán hàng mặt tròn trịa xinh xắn, bàn tay thoăn thoắt bóc lột bánh bỏ trên dĩa, xong quay qua làm tô bún cho khách chờ, luôn miệng hỏi khách muốn ăn như thế nào để cô làm theo ý cho vừa lòng. Tôi chợt thấy khuôn mặt cô quen thuộc đâu đó trong trí nhớ. Đúng rồi, cô bé ngày xưa theo mẹ bán hàng trong chợ chiều nơi đây từ hơn hai mươi năm trước.

  " Có phải em ngày xưa cùng bán với mẹ trong chợ này không ?" - Dạ phải.

" Bây giờ em lớn giỏi giang quá, mẹ em còn không ?" - Dạ, má em mất rồi, em đã có chồng con rồi.
 

Bàn tay tròn trĩnh, ngón tay đeo chiếc nhẫn vàng, lại thoăn thoắt bóc lá bánh cho khách. Tôi cúi xuống cầm đủa gắp bánh, thấy mình xúc động lạ. Miếng bánh bột lọc trong vắt, nổi bật con tôm đỏ co mình bên trong, mùi vị bánh như ngày xưa, dai mềm đậm đà. Hơn hai mươi năm trôi qua, bao đời người xung quanh đã đổi thay, biến động không ngừng, thế mà cô bé năm xưa vẫn ngồi nơi chợ này tiếp nối nghề bán hàng của mẹ mình. Dạo ấy tôi nghe người mẹ nói mới ở Huế chạy vô, chồng chết vì lạc đạn giữa đường, không còn tiền bạc chi, nên tạm làm gánh hàng chiều bán sống với con qua ngày. Con bé theo chân mẹ ngày ấy trông gầy ốm nhếch nhác. Gánh hàng dạo đó ngồi bên vạt đất trống không có bàn ghế chi, tôi thường mua về nhà. Nay cô bé thuê được một chổ tươm tất hơn, có mái che mưa nắng trong vòm chợ. Cô bé có chồng có con rồi.
 

Cô bé ơi, cô làm tôi xúc động quá, cô làm tôi hân hoan. Đa số người quen biết, đa số hàng quán ngon nổi tiếng năm xưa đều đã đi ra nước ngoài sinh sống. Tôi tìm thấy một gánh hàng còn sót lại trên miền đất cũ, con gái của gánh hàng năm xưa, nối tiếp công việc như bảo tồn truyền thống gia đình một cách tích cực và hữu hiệu. Chắc hẳn cô đã trải qua vất vả lắm mới có cuộc sống như thế, ngày hôm nay.
 

Cô nhìn có duyên, nói năng dịu dàng, cô có thể kiếm một công việc nhàn nhã hơn cho đỡ mệt nhọc chân tay, đỡ lo mưa lo nắng. Điều gì đã cầm giữ chân cô bé với nghề bán hàng này, có lẻ vì nghệ thuật nấu ăn chăng, hay đơn giản hơn chính là hình ảnh mẹ cô nấu nướng, luôn bên cạnh cô như một mẫu hình tượng mà cô mong thay thế . Cô muốn mình là người như mẹ. Có lẻ cô là người sau cùng, hậu duệ cuối của gánh hàng Huế này chăng. Rất nhiều năm qua rồi, trên xứ sở này, người nghèo lương thiện vẫn phải tần tảo mưu sinh.
 

 Các cô gái nhỏ bất chợt tôi nhìn thấy đây đó trong cảnh sống khác nhau, vẽ nên những hình ảnh sinh động. Hoạt cảnh nhìn vào có khi làm mình đau lòng, có khi lòng mình thấy êm đềm.  Mà niềm thương cảm nhiều hơn hết dành cho cô bé gặp trên vịnh Hạ Long. Con người như cây cỏ . Cỏ cây vươn lên tốt đẹp là nhờ ở đất và nước, đất sạch nước trong. /

                                               Paris, một ngày nhớ quê. TT Diệu Tâm

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.