Hôm nay,  

Công sản tệ hại cỡ nào?

06/06/201714:07:00(Xem: 7095)

Đây là một câu hỏi mà phải mất cả ngày mới có thể trả lời cho đầy đủ…  chưa nói đến việc phải trưng bày cho quý vị thấy hình ảnh, âm thanh và “video clips…”  Nếu quý vị cảm thấy không có thời giờ thì có thể tạm ngừng ở đây, lật qua trang khác; bởi vì tôi sẽ lần lượt tóm tắt các chi tiết mà có lẽ quý vị cũng từng nghe qua nhiều lần.

 

Con người không phải là côn trùng hay súc vật.  Con người với các cá tính nhân bản, biết suy nghĩ chuyện lợi và hại; có kỳ vọng và mơ ước thúc đẩy bởi sự ham muốn, đôi khi tham lam và ích kỷ… chính những cái tính tốt và xấu đó làm cho ảo tưởng thiên đường cộng sản - nơi bình đẳng không có giai cấp, mọi người hưởng theo nhu cầu và làm, sản xuất theo khả năng -  vẫn chỉ là ảo tưởng. 

 

Một xã hội, một ý thức hệ muốn thành công phải có một hệ thống sản xuất hữu hiệu, đáp ứng được sự cần thiết tối thiểu của con người: con người chỉ cố gắng làm việc tận lực nếu có phần thưởng (tư hữu) rõ ràng, có sự trả công thỏa đáng.  Đâu có ai muốn cố gắng làm việc thêm cho đảng và nhà nước (đồng nghĩa với một thiểu số người lãnh đạo) được vinh quang, và được tuyên dương là anh hùng liệt sĩ mà vợ vẫn đói lả, con vẫn mặc quần thủng đít…

Tổng Thống John F Kennedy của “đế quốc” tư bản Hoa kỳ đã tuyên bố rất cụ thể là:

“Phải thẳng thắn thừa nhận là (trong chế độ tư bản của chúng ta) quyền tự do còn có nhiều vấn đề; dân chủ chưa có thể được gọi là hoàn hảo; nhưng chúng ta không bao giờ phải xây tường để giữ chân dân Hoa kỳ hay là phải tìm cách ngăn cản dân chúng đừng bỏ nước ra đi…”

 

Dân chúng không thể liều lĩnh ra đi trên những chiếc ghe mong manh trên đại dương bao la để tìm những bến bờ vô vọng xa xôi nào đó nếu đời sống của họ dưới chế độ cộng sản thực sự là “độc lập, tự do, và hạnh phúc.”  Trong khi chính quyền cộng sản tìm đủ mọi cách ngăn chặn, bắt cầm tù, tước đoạt sạch bách tài sản của họ…  Dù vậy, dân đen vẫn chấp nhận sự chết đói, chết khát, cướp bóc và hãm hiếp bởi hải tặc Thái lan để ra đi tìm tự do…

 

Các quốc gia theo chủ nghĩa Tư bản không cần phải xây tường để ngăn chặn những người muốn ra đi.  Không thấy có một bức tường nào được dựng lên ở quốc gia tư bản để ngăn cấm người dân nước họ chạy qua đất cộng sản. Chính quyền tư bản cũng không có chuyện cầm tù thân nhân của họ nếu gia đình họ có ngưởi trốn qua đất cộng sản.  Quý vị muốn chạy qua Cuba hay Bắc hàn không?  Xin cứ tự nhiên vì không có ai rảnh rỗi để ngăn cản quý vị đâu!  Thật ra, không có ai đần độn đến mức muốn làm công dân của một nước cộng sản; muốn sống dưới con mắt luôn luôn dòm ngó của công an.

 

Trong một chính thể dân chủ thực sự thì người cầm quyền, hay lãnh đạo phải được sự lựa chọn của đa số dân chúng (qua phổ thông đầu phiếu), chứ không phải sự đề cử thuận tiện của một độc đảng ngớ ngẩn với chính sách thất nhân tâm.  Người cầm quyền (của nước dân chủ) phải có trách nhiệm, phải trả lời thỏa đáng về các vấn đề an sinh của dân.  Nếu chính sách của họ theo đuổi làm mất lòng dân, họ phải sửa đổi thích đáng; nếu không dọ sẽ bị dân loại ra (voted out or impeached).

 

Nền kinh tế tư bản là sinh hoạt kinh tế của tư nhân; Nếu có những sai sót thì vì sự tự do canh tranh, tư bản phải sửa đổi mau chóng để sinh tồn.  Trong khi đo, chế độ cộng sản cứ thản nhiên, tiếp tục theo đuổi các chính sách tệ lậu mà không hề quan tâm đến việc phải tìm cách thay đổi hay sửa chữa ại cho tốt hơn.  Thí dụ, các phong trào “Cách mạng Văn hóa” và “Bước Tiến Nhẩy Vọt” của Mao trạch Đông ở Trung Hoa làm cho gần 40 triệu dân tàu bị chết đói.  Cải cách ruộng đất ở Trung Cộng và Việt Nam làm hàng triệu địa chủ chết oan uổng vì “lỡ” làm chủ vài sào đất.

 

Bất cứ một hình thức lãnh đạo nào mà không thể bị thay thế (hay lật đổ) vì bất xứng và tàn bạo với dân đều là loại lãnh đạo tồi.  Oái oăm thay!  Loại cộng sản cứt gà hại dân hại nước vẫn cứ tồn tại khi các vấn đề sai lầm tiếp tục tái diễn trong suốt 100 năm qua. 

 

Ông Alan Greenspan, cựu Chủ tịch Quỹ Dự trữ Liên Bang Hoa kỳ (Chairman of the Federal Reserve) từ năm 1987 đến năm 2002 đã mô tả “Bức tường Bá linh” rất chính xác trong cuốn sách của ông ta là:

 

(tạm dịch)

“Sự sụp đổ của bức tường Bá linh (ngăn chia 2 nước Đức cộng sản và Đức tự do) đã phô bày một nền kinh tế tận cùng của thối nát làm ngạc nhiên ngay cả những người đến lúc đó vẫn còn ngờ vực (là cộng sản không đến nỗi tệ lắm…) Chỉ số sản xuất (degree of Productivity) của công nhân Đông đức kém hơn 1/3 chỉ số sản xuất của công nhân Tây Đức.

Dân của cả hai nước Đức với cùng một văn hóa, cùng ngôn ngữ, cùng lịch sử, cùng hệ thống giá trị thế mà chỉ trong vòng 40 năm tương lai của hai nước Đức xa cách nhau một cách thê thảm.  Sự khác biệt này là do kết quả của hai nên kinh tế: Tư bản và cộng sản.

(ngưng dịch)

 

Lịch sử đã sang trang, đã rõ như ban ngày, cộng sản xây dựng xã hội chủ nghĩa trên sự lường gạt và giả dối.  Vì chính quyền cộng sản kiểm soát hoàn toàn các lãnh vực giáo dục, việc làm, cư trú, tài nguyên, thông tin (báo chí, đài phát thanh, truyền hình, internet…)  thành ra, muốn sống cho yên thân, người dân cũng phải sống giả dối theo cách của cộng sản: bày tỏ sự ngoan ngoãn phục tùng và giả tảng “thấm nhuần / giác ngộ” như những con vật sống trong trại gia súc (George Orwell's Animal Farm).  Nếu người dân nào có chút can đảm nói lên sự thật; tức thì họ sẽ bị thân nhân, họ hàng, bạn bè, láng giềng xa lánh vì sợ bị liên lụy, bất ổn.  Dân sống khổ và sợ sệt (nên biết 1 trong 15 người là công an thì còn gì là đời?!) nhưng vẫn phải giả vờ như đang sống đời “tự lo, đập lột và hạnh fúc...”  Còn có cái gì thê thảm hơn nữa hà?!

 

Mọi người, mọi tầng lớp, từ bần nông đến trí thức đều được dạy dỗ là:  Đảng đã sáng suốt quyết định mọi chuyện dùm cho nhân dân rồi.  Nhân dân chỉ có một nhiệm vụ là thi hành các mệnh lệnh của đảng và nhà nước thì mới có cơm ăn.

 

Rất dễ dàng nhận ra là cộng sản vô thần.  Thượng đế và tôn giáo được thay thế bắng hình ảnh và tư tưởng của lãnh tụ cộng sản.

 

Theo tôi, cộng sản tồi tệ vì 3 lý do lớn sau đây:

 

1. Công sản phải đi đôi với độc tài đảng trị: 

 

Vua phong kiến và quan thực dân được thay thế bằng lãnh tụ cộng sản độc tài chuyên chế.  Kể từ “cách mạng cộng sản” đầu tiên ở Nga, tập đoàn cộng sản Nga lập tức biến thành chế độ độc tài từ Stalin cho đến cả Gorbachev.  Theo sau đó là Mao Trạch Đông ở Trung Hoa, Kim Nhật Thành ở Bắc Hàn, Hồ Chí Minh ở Việt Nam, Fidel Castro ở Cuba, Pol Pot ở Cam-bốt…  Rập một khuôn, đánh cùng một quẻ.

 

2. Công sản là đồng nghĩa của thiển cận và ngu dốt:

 

Cộng sản biến các quốc gia giàu có, nhiều nguyên liệu thành nghèo khổ tận mạng, chết đói hàng loạt.  Điển hình là nước Nga dưới thời Nga hoàng (Czar) ở đầu thế kỷ 20 vẫn còn xuất cảng ngũ cốc sang Âu châu.  Một cái rẹc!  Cộng sản Nga làm hàng triệu dân Nga chết đói vì chính sách kinh tế chỉ huy và nông trường tập thể.

 

Tổng Thống Obama lúc còn tại chức đã nói với truyền thông thế giới là:

 

“Tôi chẳng thấy nước Nga sản xuất được cái quái gì hết.  Quý vị thấy trên thị trường tiêu thụ của thế giới, có cái gì gọi là ‘Ma-dze in Russia’ không?”

 

Thiệt tình!

 

Thực ra, cho đến ngày hôm nay trên thị trường mậu địch quốc tế Nga chỉ bán ra được duy nhất hai món: dầu hỏa và vũ khí chiến tranh. 

 

Trước khi bức tường Bá linh bị đập đổ, Đông Đức chỉ làm được duy nhất 1 chiếc xe hơi hiệu “Trabant” xấu xí không tưởng tượng nổi: nhìn y như một cái thùng rác cũ có 4 bánh.  Sau khi Đông Đức sát nhập vào Tây Đức hãng xe “Trabant” phải dẹp tiệm ngay tức thì vì không thề nào cạnh tranh với xe Tây Đức có phẩm chất cao và đẹp đẽ như Mercedes, BMW, Audi, VW, Porche…

 

Tiếp theo sau đây là lời nói điển hình và có ý nghĩa nhất về sự ngu dốt và “chệch hướng” của cộng sản từ ông Boris Yeltsin, cựu đảng viên cao cấp của đảng cộng sản Nga, cựu Tổng thống của Cộng hòa Liên sô (sau khi Liên bang Sô viết giải thể đảng cộng sản Nga) mà tôi xin mượn ở đây như là một bằng chứng sống:

 

(nguyên văn)

 

“Our country has not been lucky.  Indeed, it was decided to carry out this Marxist experiment on us – fate pushed us is precisely this direction.  Instead of some country in Africa, they began this experiment with us.  In the end we proved that there is no place for this idea.  It simply pushed us off the path the world’s civilized countries have taken.  This is reflected today, when 40 percent of the people are living below the poverty level and, moreover, in constant humiliation when they receive produce upon presentation on ration cards.  This is a constant humiliation, a reminder every hour that you are a slave in this country.”

 

Boris Yeltsin

(In a speech to a meeting of Democratic Russia, June 1, 1991)

 

Tôi tạm lược dịch là:

 

“Đất nước của chúng ta thật kém may mắn.  Thực ra, đất nước này đã thử nghiệm thuyết cộng sản – và định mệnh đã đưa đẩy đất nước chúng ta vào đúng cái chiều hướng (oan nghiệt) này.  Đáng lẽ ra thuyết cộng sản phải được dùng cho các quốc gia (kém mở mang) ở Phi châu (?), thì (ngược lại) nó lại được đem áp dụng cho đất nước của chúng ta.  Đến ngày hôm nay, chúng ta đã chứng minh rõ ràng là đất nước chúng ta không bao giờ nên có cái lý thuyết (cộng sản tai hại) này.  Thuyết cộng sản đã đẩy chúng ta ra ngoài con đường tiến hóa mà các quốc gia văn minh trên thế giới đang đi.   Ngày hôm nay nhìn lại, khi 40 phần trăm dân chúng (Liên sô) đang sống ở  mức độ bần cùng, hơn thế nữa, hàng ngày họ đã phải ngửa tay xin nhận tem phiếu (của đảng và nhà nước) cho tất cả các vật dụng (và thực phẩm) trong sự nhục nhã triền miên.  Sự nhục nhã vô cùng tận này, nhắc nhở cho chúng ta biết từng giờ từng phút: chúng ta là những nô lệ trong chính đất nước của chúng ta.”

 

Boris Yeltsin

(Trích trong diễn văn đọc tại một buổi “mít tinh” của Cộng hòa Liên sô vào ngày 1 tháng 6 năm 1991).

 

3. Cộng sản sẽ sẵn sàng giết bất cứ ai bất đồng ý kiến với họ:

 

Chỉ trong 1 năm sau khi nắm chính quyền, Lenin giết và thanh trừng dân Nga bằng số Nga hoàng giết dân Nga trong 70 năm.  Số người bị cộng sản giết tập thể gấp 10 lần con số mà Đức quốc xã đã giết trong đệ nhị thê chiến.  Cay hơn nữa là cộng sản chỉ tài ở cái mảng giết đồng chủng (Đức quốc xã thì chỉ chuyên giết dân gốc Do Thái).  Cho đến ngay hôm nay, một đảng viện Đức quốc xã dù đã trên 90 tuổi vẫn bị quôc tế truy lùng đưa ra tòa án quôc tế.  Vậy mà các lãnh tụ khát máu cộng sản giết trên 94 triệu người (Xem chi tiết ở phần dưới) vẫn không có tên nào bị đưa ra tòa án quôc tế trừng phạt? Kỳ lạ thật.

 

Một trong các tài tiệu khảo cứu khá tỉ mỉ về tính hiếu sát khát máu của cộng sản là “The Black Book of Communism” xuất bản năm 1997.  Mặc dù tài liệu này bị cộng sản la oai oải là tài liệu “kỳ thị.”  Tuy nhiên “The Black Book” đã đưa ra một các con số dân đen bị giết ngay dưới chế độ cộng sản khát máu như sau:

 

• 65 triệu người ở Trung cộng.

• 20 triệu người ở Liên sô.

• 2 triệu người ở Cam-bốt.

• 2 triệu người ở Bắc Hàn.

• 1.7 triệu người ở Ethiopia.

• 1.5 triệu người ở A Phú Hãn.

• 1 triệu người ở các nước cộng sản Đông Âu.

• 1 triệu người ở Việt Nam.

• 150,000 triệu người ở châu Mỹ La tinh – Phần lớn là Cuba.

• 10,000 người bị thiệt mạng vì sự nổi dậy của các phong trào cộng sản quốc tế.

Theo tác giả cuốn “The Black Book of Communism” thì tổng số người chết vì chế độ cộng sản độ 94 triệu người.

 

Đặc biệt nhất phải kể cộng sản chết tiệt “mắm sặc” Cam-bốt đã giết gần 25% số dân Cam-bốt của mình: Một tỉ lệ cao nhất về loại giết đồng chủng.  Thiệt là ngu hết biết luôn nè trời –  loại botay.com

 

Đã đến lúc phải trả sự thật cho sự thật: Cộng sản là tai họa lớn lao nhất trong lịch sử nhân loại.  Phải được khai trừ lập tức. 

 

Mà nè!  Còn chờ đến khi nào nữa đồng bào ta?!

 

 

Trần Văn Giang
Orange County - Ngày 5 tháng 6 năm 2917

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.