Hôm nay,  

Người quét mộ Cụ Phan

08/07/201706:29:00(Xem: 6817)

 Người quét mộ Cụ Phan

 

 

Truyện ngắn Nguyễn Văn Sâm

 

blank

 

Năm sáu đứa học trò coi bộ thiếu ăn, ốm nhom, chừng 12, 13 tuổi nhảy chưn sáo chung quanh đoàn du khách, nhìn ngó lom lom từng người như muốn khám phá điều gì đó. Cuối cùng một đứa coi bộ sáng láng nhứt rụt rè nói với tôi:

‘Chú có muốn đi thăm ông Sáu Hấu không vậy? Ai tới đây cũng đi thăm ông Sáu Hấu hết .’

Tôi quay lại, hỏi bằng mắt. Đứa khác chỏ miệng xía vô:

‘Giờ nầy chắc ổng có ở nhà đó.’

Đứa nầy thúc đứa kia, co ro, chùm nhum vô một đám nhưng không đứa nào tới quá gần chúng tôi.

‘Chắc chắn là có . Năm giờ rồi. Cở chừng 4 giờ thì ổng đã về rồi .’

Tiếng mà, của nó lập lại, kéo dài, dễ mến cách gì. Bỗng nhiên tôi thấy mình muốn biết nhân vật Sáu Hấu nầy.

‘Mà ông Sáu Hấu là ai vậy mấy cháu?’

‘Ổng là người quét mã Cụ Phan đó .’

Hết lại ! Tôi cười trong bụng.

‘Ủa lạ há? Vậy ai trả tiền cho ông ta?’

‘Đâu ai trả tiền cho ổng đâu . Ổng tự nhiên lấy chổi quét mình ên mỗi ngày. Ban đầu người ta còn đuổi đi nhưng thét rồi chán không ai rầy rà nữa, ổng cứ quét tự nhiên như nhà của ổng hà, họ để ổng mình ên muốn làm gì làm.’

Tôi khoái tiếng mình ên nầy, còn làm bộ ngu ngơ:

‘Bộ chủ đất hay là chủ mã ngầy ngà ổng hả?’

Mấy đứa nhỏ bỗng nhiên xô nhau chạy nhảy lung tung, cười nức nẻ:

‘Làm gì có chủ mã! Đó là Chú Tám Chinh, Chủ Tịch Xã đó.’

Mệt quá với mấy cái tên như Sáu Hấu, Tám Chinh…, nghe qua khó nhớ thấy bà nội. Tôi tò mò thêm nên quyết định đi tới nơi cho biết nhân vật Sáu Hấu.

‘Xa không vậy mấy đứa?’

‘Quẹo sau bụi chuối đằng kia, đi thẳng chừng mười phút, bỏ cái chùm cây nhum thì thấy nhà ổng dưới cây trâm bầu lớn nhứt chỗ ao cá đó.’

Một đứa liếng thoắng nhứt chỉ thằng nhỏ vừa mới nói câu vừa rồi.

‘Đó là hố bom có ông nội nó bị bắn chết hồi xưa ở đó.’

Tôi thở dài, nói nho nhỏ : ‘Chiến tranh di hại lâu dữ ha, tới bây giờ còn để lại vết tích.’

Thằng nhỏ nghe nhắc chuyện xưa có vẽ ngơ ngác, chắc nó lạ lẫm với cái từ chiến tranh di hại. Nó ngó tôi lặng thinh. Cái thằng! Chỉ đường coi bộ rành rọt nhưng làm cho tôi lờ mờ thêm vì cây trâm bầu ra làm sao tôi thiệt tình không biết, chỉ biết qua cái tên của một cuốn tiểu thuyết nào đó thời xa xưa. Cây nhum thì tôi còn mù tịt hơn.

‘Tụi con đi với chú.’ Một đứa con gái nảy giờ lặng thinh bây giờ mới lên tiếng.

 

Đó, tôi biết ông Sáu Hấu trong trường hợp như vậy bốn năm về trước khi thiết đặt chương trình đi thăm mộ các danh nhân trong nước. Mộ Phan Thanh Giản nằm ở cái xã nhỏ thuộc huyện Ba Tri, Bến Tre. Điều đầu tiên làm tôi thất vọng khi so sánh mộ Cụ Phan khiêm nhường ở trong một rẻo đất, chung quanh đầy nhà cửa dân chúng, cây cối mọc lan tràn lấn chiếm, trong khi đó lăng Nguyễn Đình Chiểu cách không xa bao nhiêu nằm ở một vị thế trang trọng, có đền thờ, có quá nhiều bậc thềm lên lăng, có mấy cô thuyết minh duyên dáng lịch thiệp, có nhiều người săn sóc, quét tước, tỉa cây và nhang đèn cung cấp cho khách viếng với giá tự nguyện.

Ông Sáu Hấu cười như mếu:

‘Điều vui cho Cụ Phan là Cụ có bạn láng giếng’, ông vừa nói vừa hất hàm chỉ về ngôi mộ của Võ Trường Toản ở gần đó. ‘Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu chỉ có người sống đến làm lễ nầy lễ kia, còn đại thần Phan Phan Thanh Giản có bạn cõi âm cận kề tâm sự luôn luôn. Chưa biết điều nào làm thỏa lòng người đã khuất hơn!’

Tôi buột miệng ngâm:

Sanh tiền giáo huấn đắc nhân, vô tử nhi hữu tử..

Ông Sáu Hấu làm tôi ngạc nhiên khi tỏ ra hiểu rành vế đối:

‘Ừ! Cụ Võ không con mà có bao nhiêu học trò trọng nể coi như cha ruôt. Cụ Phan có nhiều con cháu nay vì thời thế tản lạc tứ phương. Tôi quét mộ Cụ coi như là cháu chít tinh thần…. Mà cần gì máu thịt hả? Thương nể chân thành là được rồi. Tôi thương mến Cụ vì tập Lương Khê Thi Thảo, tôi nể phục Cụ vì chén thuốc độc ung dung bưng đưa lên môi uống cạn.’

Ngoài sân một con gà mái đương túc con, độ mười con gà con lông tơ vàng, dễ thương cách gì tít tít chạy theo mẹ. Chút nắng vàng èo uột sót lại trên tàng cây càng làm cho cảnh trí mang thêm nét tiêu điều cố hữu.

Tôi hậm hực hỏi giống như tra vấn:

‘Sao mộ Cụ Phan không được chánh quyền địa phương săn sóc trong khi ông là đại thần dính dáng đến lịch sử và đất địa nầy, ông đã sống tiết tháo và chết oai hùng với nhiệm vụ. Cụ Nguyễn Đình Chiểu chỉ là nhà văn lên tiếng chống ngoại xâm thôi, không có dịp chứng tỏ sự anh dũng bằng hành động dầu rằng văn ông bốc lửa khi nước nhà ngữa nghiêng?’

‘Biết đâu ! Muốn thì người ta làm, hơi sức đâu mà giải thích. Với lại ai dám hỏi mà người ta có dịp nói ?’

Tôi thích thêm tiếng chấm câu của ông Sáu Hấu, cũng như tôi thích tiếng lúc còn học Trung Học qua miệng cô bạn cùng lớp mang dòng máu đất Thăng Long văn vật xa xưa. Nói chung tôi thích những tiếng ít người dùng như tía, chế, hia, như mình ên, như huốt, như thây nó… Thích tiếng, lắm khi tôi thích luôn người xài tiếng đó mà không biết tại sao. Trong năm đầu tiên vô Đại Học tôi quấn quít bên thằng Ngầu, nó là kho tàng tiếng địa phương mà tôi chưa có dịp khám phá. Thích tiếng lạ, tôi lại mê những vật có tên là lạ, tôi thích cầm cái ky, mân mê cái chày vồ, ưa rờ cái khạp da bò, thích ngồi mép đít trên thành cái mái vú to tổ chảng, thích lột ăn từ lớp từ lớp bánh pía ngon lành, thích thưởng thức bánh thửng, mè xửng, bánh còng, bánh khọt, bánh tai heo, thích nhìn ngắm mấy lớp bánh da lợn màu mè… Tóm lại, tôi khoái nghe những tiếng lạ lạ, chơn chất không tìm thấy trong văn học, chỉ tồn tại bằng giọng nói của người bình dân nơi thôn quê ruộng rẫy.

‘Nè ông Sáu!’ Tôi giải thích theo kiểu khiên cưỡng là đất nước mình cần anh hùng. ‘Dám chống lại giặc, đối đầu với lực lượng áp đảo của giặc là anh hùng. Giao thành cho giặc xong dầu uống thuốc độc tự vận cũng là đầu hàng giặc, đâu thể gọi là anh hùng được phải không? Hạ bệ là phải thôi.’

Ông Sáu Hấu bình thản quấn điếu thuốc sâu kèn, đốt lửa, bập bập:

‘Chuyện đời, ở bên ngoài biết hết bí ẩn bên trong được đâu ! Giao thành để cứu dân ba tỉnh hay nướng hết dân đen ba tỉnh cho súng lớn súng nhỏ cái nào hay? Nói nhón một câu, khó biết lắm ông Việt Kiều ơi? Bàng nhơn thiên hạ phê bình thì dễ, tới chừng đụng chuyện mới biết khó dàng trời mây, bứt hết tóc cũng tính không ra kế.’

Tôi nhột khi bị kêu bằng Việt Kiều. Chẳng biết tại sao nữa, nhưng mà áy náy giống như mình làm điều gì sai trái người ta biết tẩy nhưng không nói ra. Có lẽ tôi mặc cảm trước việc làm vô vị lợi của ông già gầy còm nầy trong khi mình mạnh khỏe bảnh bao thọc tay vô túi quần đứng ngó. Tôi nói đẩy đưa cho có chuyện:

‘Và ông cho rằng biết thời thế để xử trí như Cụ Phan là anh hùng. Quét lau mộ Cụ, ông chứng tỏ rằng mình theo bảng giá trị khác với người đời phải không? Nói thiệt đi ông bạn!’ Tôi dùng chữ ông bạn với giọng thân mật, cầu hòa.

Ông Sáu Hấu ngó xuống cườm tay mình, đen mốc, khét nắng, sần sùi thẹo, rải rác mấy chỗ da chai, không trả lời thẳng, chỉ nhẹ nhàng:

‘Ừ thì làm nhón vậy mà. Cực khổ gì đâu chú em. Ngồi ngó mong ra ngoài sân cũng hết ngày, hết đời. Bóng thiều quang có chờ đợi ai bao giờ đâu. Quét tướt quơ quào ba cái lá khô, mấy đống chó ị cho mát dạ tiền nhơn vậy mà! Tôi nói bậy bạ vậy mà chú em thấy phải không chớ?’

Ông đứng dậy, hai cái ống quần xà lỏn hơi rộng, đong đưa trong khoảng không giữa lớp vãi quần xám mốc và bắp chân đen đủi như khúc củi mục nhỏ xíu của ông, tay vói lấy cây chổi tào cau, tay cầm nùi giẻ bỏ vô một cái sô lưng lửng nước. Bộ tịch hơi chậm, chưn đứng lên run run. Tuổi già ở quê tới mau hơn dân thành thị.

‘Đi! Tôi phải quét mộ cụ. Mặt trời xuống chút nữa thì tụi nhỏ cặp nầy cặp kia ngồi choáng chỗ khó lau quét.’

Tôi đề nghị xách giùm ông sô nước, ông Sáu Hấu từ tốn gạt nhẹ tay tôi ra điều nói mình chưa già.

Nơi mộ danh nhân kia, bóng chiều đã xuống nhiều, gió mát lạnh. Hai ba cặp trẻ đã giành những chỗ tốt, mấy chiếc xe gắn máy dựng che nửa hở nửa kín cho chỗ tình tự, mân mơn.

Ông Sáu Hấu lui cui quét dọn, như mình không có mặt trên cõi đời nầy. Ông nói nhỏ với tôi:

‘Đừng ngó bọn trẻ. Mắc cở tội nghiệp. Tuổi mới lớn thời nào cũng vậy thôi. Hưởng, mai tính theo mai.’ Ông nheo mắt mặt như dân chơi thứ thiệt: ‘Hôm nào huỡn huỡn mình ôn lại chuyện cũ đời mình coi. Đâu thua gì chúng nó đâu nè!’

 

Qua Tết, tôi mượn cớ dò đọc bài văn bia trên mộ Cụ Phan, lâu rồi hứa chép tặng một cơ quan văn hóa ở bên nầy, nên xuống lại vùng mộ Cụ để có dịp nói chuyện bá vơ với ông Sáu Hấu.

Thấy gần cả chục dưa bự xộn bỏ lăn lóc trong góc nhà, tôi xuýt xoa rằng ông ăn Tết quá lớn, ông giải thích:

‘Thằng Tám Chinh cho người đem tặng đó, tôi đâu thèm nhận. Của ăn cắp nhận mang tiếng chết. Tuần trước gần ngã ba đường cái có hai xe tãi chỡ dưa, giành lấn đường sao đó mà một xe lật nhào xuống ruộng, dưa bể lăn lủ khủ, tài xế cà nhắc bỏ chạy trốn, dân chúng hè nhau tới hôi dưa mang về chưng Tết. Bậy hết chỗ nói! Đã vậy mà thằng Tám Chinh còn thị thiềng cho bà con của nó đem xe ba bánh tới chỡ ra chợ bán. Tôi la rầy phản đối, nó trám miệng bằng mấy trái dưa ế nầy, nói là để kiếng Cụ Phan. Nói kiếng Cụ Phan thì tôi phải nhận nhưng mà chỉ để đó, thủng thẳng rồi tính. Vong hồn Cụ đâu chứng giám kiểu ăn cướp có ba tăng nầy mà kiếng với cúng.’

Tôi buột miệng nói một câu lãng nhách, hớ vô cùng:

‘Thôi mình lấy một trái xẻ ăn, còn bao nhiêu trả lại tụi nó.’

Sáu Hấu đỏ bừng mặt, lớn tiếng phản đối:

‘Ông là Việt Kiều mà nói vậy nghe được sao? Muốn ăn thì tôi ra chợ mua về một cặp mình ăn cho đã luôn. Của nầy là của bá vơ, ăn nuốt làm sao trôi khỏi cổ?’

Tôi phải cười mơn, giả lả là nói chơi, ông Sáu Hấu lâu lắm mới nguôi nguôi cơn giận.

Lúc sau tôi giả bộ thiệt thân tình hỏi về vợ con, ông ngâm nga theo điệu thơ Quê Hương … Chuyện chồng con khó nói lắm anh ơi. Rồi ông kéo áo lên khỏi bụng:

‘Xin lỗi ông Việt Kiều nha, tôi không tính cho ông biết cái vụ nầy nhưng mà… Thôi! Cái thẹo chần vần như vầy mà vợ con gì nữa.’

‘Sao lạ vậy kìa?’

‘….Thuyền tui tới Hồng Kông sau khi ở đây đã hết hạn tiếp nhận người tỵ nạn cho nên họ nhốt hết nguyên đám vô tù. Rạc ràng chừng hơn hai năm thì có chuyện cưỡng bức hồi hương. Mẹ, mình đã đánh đố với Tử Thần để đi thoát mà bị cưỡng bức hồi hương vì là người khách đến trễ giờ thì có là ăn c. Biểu tình hoài mà họ cứ trói từng người liệng lên xe trả về, từng đợt, từng đợt. Tụi tui 9, 10 đứa xung phong rạch bụng tự tử để phản đối. Máu chảy ngập sân, nhầy nhụa đỏ gạch mà nhân loại ngủ hết, chẳng ai lên tiếng lên tăm. Mấy đứa chết thẳng cẳng, còn mấy đứa ngất ngư. Tôi tỉnh dậy thì thấy mình đương ở trên máy bay bay về nơi xuất phát, bụng còn băng mấy lớp, máu tươm ra thấm đỏ áo. Cô nhân tình bé bỏng mất liên lạc từ đó.’

Tôi thở dài:

‘Thôi thì là… số mạng hết ông Sáu à! Ở đâu cũng là do thiên định sẵn rồi. Bôn ba chẳng qua thời vận. Cần là mình sống cho phải đạo. Quét mộ Cụ Phan, ông ơi, phải đạo hơn ngàn lần làm Việt Kiều quậy phá, ăn cắp ăn gian tiền nọ tiền kia của đất nước rộng mở bao dung.’

Sáu Hấu vui hơn đôi chút, tâm sự:

‘Thời gian ở trại, những đêm mưa rỉ rã, âm thanh giọt mưa gõ lên mái tôn trong đêm vắng nghe như nhạc chết, nói lên cái tương lai đen tối của người chẳng có quê hương. Thêm buồn vì sự tranh đấu phải giữ kín, không dám lộ, tôi ngâm nga mấy câu thơ của Cụ Phan làm khi Cụ đi xa không thể ngủ:

Nằm không ngủ đêm thành dài vô tận,

Nín lặng thinh ý tưởng hóa thâm trầm.

Năm tàn hết chuyện ngày qua tồn đọng,

Trở thành xưa cổ tích của ngàn năm.

Sông trôi chảy sánh thời gian tuôn lướt,

Vầng trăng kia soi mượt đỉnh cô phong.

Mang tâm sự biết ai đâu kỳ vọng,

Khách địa buồn đau xoáy buốt thân tâm.

‘Về lại đất nước mình, sau thời gian lăn lóc kiếm ăn khó nhọc, tôi trôi dạt tới đất địa linh nầy. Thấy mộ Cụ Phan điêu tàn, gà bới, chó chạy rong ị bậy, bọn trẻ xả rác lềnh khênh, mấy đứa chăn trâu đập bể đá cẩn, khẻ khờn mép bia… nhớ lúc ở trại trong vòng rào kẻm gai, tôi nuôi sống tâm hồn mình bằng bài thơ Bất Mỵ của Cụ nhờ đó khỏi điên, khỏi nhảy lầu, tôi phát nguyện….’

Tôi đứng bật dậy, đưa hai tay bắt tay người bạn già, nâng niu như bàn tay một người trưởng thượng trong gia đình lâu ngày không gặp. Chúng tôi nhìn thẳng vào mắt nhau, chẳng cần nói điều gì thêm.

Mấy năm rồi hễ có ai về tôi đều nhờ ghé tìm thăm ông Sáu Hấu của tôi. Chẳng ai cho được một chi tiết cụ thể nào. Ai cũng nói hỏi không ra, không biết ông đi đâu rồi. Cái ao cá hố bom trước nhà ông bây giờ đã lấp mất, biến vào Không như dật sử đời ông. Sau cùng có người mơ hồ cho tôi biết ông vấp miễng sành hay đạp miểng bom, đinh sét gì đó rồi bị phong đòn gánh giựt chết. Riêng tôi nghĩ rằng ông đã lìa bỏ xác phàm, xa rời cõi có không trần cảnh để đi vào Cõi Không rốt ráo. Ông hóa thân xuống ban dạy từ bi cho người đời, thức tỉnh lòng hỉ xã trong tôi lâu nay đương mê ngủ. Có thể công nghiệp đã xong, ông chọn cách tịch gây nhiều cảm xúc nhằm nhắn nhủ gì đó với đời, chẳng hạn như: Đất nước chưa thật sự an lành, nỗi rủi ro bất hạnh vẫn đương rình rập dân đen từng giờ… Biết đâu được nà! Bài học ở đời nhan nhản quanh ta, khó là tự ta phải biết tìm ra bài để học.

Ở phương trời xa xôi, đôi lúc ngồi ngắm mây trời phiêu lãng trôi, nhớ xứ sở, tôi trách thầm khi thấy mình ngày đó ngu ngơ không giải nỗi bài toán tại sao lại quét mộ Cụ Phan. Ông Sáu Hấu đã gián tiếp cho lời gợi ý: ‘Giữa người yếu không thể tự vệ là dân ba tỉnh Miền Nam và kẻ xách vũ khí đi xâm lược là thực dân Pháp ai là kẻ đáng tôn vinh, ai là người nên xếp vào hàng bất xứng?’ 

 

Nguyễn Văn Sâm

Victorville, CA, June 1-10, 2011

 

Lời người viết truyện:

Ông Sáu Hấu à! Thường truyện ngắn viết hết truyện thì thôi, thậm chí tác giả cũng không có quyền giải thích về tác phẩm của mình, phải trao toàn quyền hiểu như thế nào cho từng độc giả. Xin ông Sáu Hấu bỏ qua cho vài ba điều ông không muốn nói mà tôi đã nói, nhiều đoạn tôi hơi cường điệu chút đỉnh. Ông còn sống hay đã mất quan trọng đối với một đời người nhưng không quan trọng đối với bài học người đó trao truyền cho đời, do đó tôi nói lại chuyện của ông mà sẽ không đi tìm nơi ông an nghĩ dù chỉ để thắp một nén hương. Xin ông hiểu cho.

Về các chi tiết: Lăng mộ cụ Phan và Cụ Võ ở tại xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Lăng mộ Nguyễn Đình Chiểu tại xã An Đức, cùng huyện.

Câu đối ở mộ Cụ Võ:

Sanh tiền giáo huấn đắc nhân, vô tử nhi hữu tử.

Một hậu thịnh danh tại thế, tuy vong giả bất vong.

Bài Bất Mỵ (không ngủ) của Phan Thanh Giản trong Lương Khê Thi Thảo: Bất mỵ tiêu hà vĩnh/Vô ngôn ý chuyển thâm/Chung tuế  tích xuân hạ/ Lãi vãn thành cổ câm/Giang lưu tranh nhật quỹ/ Minh nguyệt quá cô sầm/Hữu hoài phục thùy ngữ/ Đao đao du tử tâm. (Nguyễn Văn Sâm dịch.)

 .

 

GHI CHÚ:
150 NĂM PHAN THANH GIẢN
Kính mời tham dự Kỷ-Niệm 150 Năm Phan Thanh Giản Tuẫn Tiết vào Chủ-nhật, 9 tháng 7/2017 từ 11:00 AM - 5:00 PM Tại Viện Việt-Học, 15355 Brookhurst St., Suite 222, Westminster, CA 92683. Giới-thiệu sách, tài-liệu triển-lãm chung quanh vấn-đề tuẫn-tiết cuả Phan Thanh Giản do hậu-duệ cuả cụ là ông Phan Thanh Thu và Cô Phan Khanh phụ trách. Với các diễn-giả: Phạm Phú Minh, Nguyễn Văn Sâm, Nguyễn Văn Trần (đến từ Pháp), Nguyễn Quốc Trị, Tiến-sĩ Huỳnh Long Vân (từ Úc Châu, qua Skype)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
Trong bài phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York hôm 23 tháng 9 năm 2025, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nói rằng, “Biến đổi khí hậu, bất kể điều gì xảy ra, các bạn đã bị cuốn hút vào đó rồi. Không còn việc hâm nóng toàn cầu nữa, không còn chuyện toàn cầu lạnh cóng nữa. Tất cả những tiên đoán này được thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức khác, thường là những lý do tồi và đều sai lầm. Chúng được tiên đoán bởi những kẻ ngu mà dĩ nhiên là số phận của đất nước họ và nếu tiếp tục thì những quốc gia đó không có cơ hội để thành công. Nếu các bạn không tránh xa khỏi trò lừa đảo xanh này thì đất nước của các bạn sẽ thất bại.” Đó là lời chứng rõ ràng được đưa ra trước cộng đồng quốc tế về quan điểm và hành động của chính phủ Trump chống lại các giá trị khoa học mà nhân loại đã, đang, và sẽ tiếp tục giữ gìn và thực hiện để làm cho cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ và hạnh phúc hơn.
Năm xưa, khi Benjamin Franklin rời khỏi Hội nghị Lập hiến năm 1787, một người phụ nữ hỏi ông: “Ngài Franklin, chúng ta có được chính thể gì, một nền quân chủ hay một nền cộng hòa?” Ông đáp: “Một nền cộng hòa, nếu các người còn giữ được nó.” Benjamin Franklin muốn nói, một nền cộng hòa, tức chính quyền của nhân dân, dựa trên luật pháp và trách nhiệm của người dân. Nền cộng hoà không tự bền vững, nó chỉ tồn tại nếu người dân có đủ phẩm hạnh, lý trí. Dân chủ không phải một thành quả, mà là thử thách liên tục. Câu nói ngắn gọn, đanh thép năm xưa của Franklin nay linh nghiệm, dưới thời Donald Trump.
Sáng nay, một post trên mạng xã hội của một người bạn làm tôi khựng lại: “Nếu không thích nước Mỹ, thì cuốn gói cút đi.” Câu đó khiến tôi nhớ về một buổi chiều hơn mười năm trước. Hôm ấy, nhóm bạn cũ ngồi quây quần, câu chuyện xoay về ký ức: Sài Gòn mất. Cha bị bắt. Mẹ ra tù. Chị em bị đuổi học, đuổi nhà. Và những chuyến tàu vượt biển không biết sống chết ra sao. Giữa lúc không khí chùng xuống, một người bạn mới quen buông giọng tỉnh bơ: “Các anh chị ra đi là vì không yêu tổ quốc. Không ai ép buộc dí súng bắt các anh chị xuống tàu cả.” Cả phòng sững sờ. Ở đây toàn người miền Nam, chỉ có chị ta là “ngoài ấy.” Vậy mà chị không hề nao núng. Ai đó nói chị “gan dạ.” Có người chua chát: “Hèn gì miền Nam mình thua.”
Trong cái se lạnh của trời Tháng Mười vào Thu, khi màu lá trên khắp nước Mỹ chuyển sang gam màu đỏ rực, vàng óng, thì một cơn bão đang âm ỉ sôi sục, len lỏi dưới bề mặt của cuộc sống người Mỹ. Gió càng thổi mạnh, cơn bão ấy sẽ càng nhanh chóng bùng nổ. Vỏn vẹn trong một tháng, nước Mỹ chứng kiến ba sự kiện chấn động, nức lòng những người đang dõi theo sự mong manh của nền Dân Chủ. Mỗi sự kiện diễn ra trong một đấu trường riêng của nó, nhưng đều dệt nên từ cùng một sợi chỉ của sự phản kháng kiên cường: bắt nguồn từ sự phỉ báng tính chính trực của quân đội; tước toạt thành trì độc lập, tự do của báo chí – ngôn luận; và những cú đánh tới tấp vào sức chịu đựng của người dân.
Hiểu một cách đơn giản, văn hoá là một khái niệm tổng quát để chỉ sự chung sống của tất cả mọi người trong cùng xã hội, bao gồm ngôn ngữ, phong tục tập quán, tôn giáo và luật pháp. Do đó, luật pháp là một thành tố trong toàn bộ các hoạt động văn hoá và có ảnh hưởng đến tiến trình phát triển xã hội, một vấn đề hiển nhiên...
Bất kỳ là ai, trẻ cũng như già, nữ cũng như nam, thật là tò mò, nếu chúng ta có thể biết được tương lai gần hoặc xa của mình, của người khác. Biết được tương lai là chuyện thú vị, hoặc căng thẳng, hoặc sôi nổi, hoặc sợ hãi. Ví dụ như bạn tiên đoán được ba tháng nữa sẽ gặp tai nạn hoặc cuối năm nay sẽ bị vợ ly dị. Nhưng có thể nào tiên đoán như vậy không? Làm gì có, chỉ là chuyện giả tưởng, chuyện phim ảnh và tiểu thuyết. Chuyện mấy bà phù thủy nhìn vào thau nước hoặc quả bóng kính trong thấy được chuyện mai sau, việc mấy ông thầy bói bấm tay nhâm độn, lật bài bói toán, v… v… chỉ thỏa mãn giấc mơ và tưởng tượng. Trong thực tế, chuyện đang xảy ra còn chưa giải quyết xong, nói chi chuyện ngày mai. Không đúng, nếu biết chuyện ngày mai thì chuyện hôm nay vô cùng dễ giải quyết. Ví dụ, “nếu biết rằng em sẽ lấy chồng, anh về lấy vợ thế là xong. Vợ anh không đẹp bằng em lắm, nhưng lấy cho anh đỡ lạnh lòng.” (Thơ vô danh). Thay vì cứ đeo đuổi hai ba năm sau, kéo dài buồn bã, đau khổ, để rồi “Lòn


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.