Hôm nay,  

Dân Tộc và Dân Chủ

08/07/201700:00:00(Xem: 5138)
Andrew Đỗ, Giám sát viên Quận Cam, California

Từ cụ Trần Trọng Kim tới Mẹ Nấm...

Tuần qua, dư luận người Việt khắp nơi phẫn nộ về việc nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội ra lệnh tịch thu và cấm lưu hành cuốn hồi ký chính trị MỘT CƠN GIÓ BỤI của học giả Trần Trọng Kim.

Về cuốn hồi ký của cụ Trần Trọng Kim, chúng tôi đã hân hạnh được đọc và học hỏi rất nhiều khi được mời lên diễn đàn của nhật báo Việt Báo phát biểu trong lễ tái bản cuốn sách vào tháng 5 năm 2015 do nhà Xuất bản Sống tổ chức. Và chúng tôi phát biểu với tư cách một người thuộc thế hệ trẻ đã trưởng thành tại Hoa Kỳ.

Qua cuốn hồi ký của một sử gia đầy uy tín, thế hệ về sau biết thêm rằng Việt Nam bị thực dân Pháp hoàn toàn cai trị từ năm 1883 với quy chế chia xứ sở làm ba “Kỳ” cùng ba thành phố bị Pháp trực trị là Hà Nội, Sài Gòn và Đà Nẵng. Vào năm 1945, khi học giả Trần Trọng Kim miễn cưỡng nhận sự ủy thác của Hoàng đế Bảo Đại để làm Thủ tướng đầu tiên của nước Việt Nam độc lập sau 62 năm cai trị của thực dân Pháp, nhân vật đầy tiết tháo ấy đòi Nhật Bản trả lại độc lập cho cả lãnh thổ và cố gắng tổ chức lại việc cải cách trên cả nước sau khi bị chiến tranh tàn phá. Yếu tố thúc đẩy những nỗ lực đó của cụ Trần Trọng Kim là tinh thần dân tộc và lòng khát khao độc lập của người dân Việt: dân ta hãnh diện là công dân của nước Việt Nam độc lập.

Nhưng người cộng sản lại cướp chính quyền vào ngày 19 tháng 8 năm đó rồi đưa quốc gia Việt Nam vào quỹ đạo cộng sản quốc tế và gây ra cảnh chinh chiến tương tàn trong mấy chục năm.

Sau khi họ chiến thắng năm 1975 thì Việt Nam mất tự do, nền dân chủ không thể xuất hiện và nhiều người chấp nhận mọi rủi ro để tỵ nạn ở xứ khác. Cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ thành hình từ đó, trở thành một phần của sức mạnh Hoa Kỳ. Nhưng là công dân Mỹ, người Việt mình vẫn không thể quên Việt Nam, nay chưa có dân chủ mà cũng không có độc lập do sức ép của Trung Quốc. Đọc lại hồi ký của cụ Trần Trọng Kim, mọi người đều thấy cái tội ác từ nguyên thủy: cộng sản.

Ngẫm lại thì người cộng sản gây cảnh sương máu tương tàn vì hứa hẹn ba điều là độc lập dân tộc, là công bằng xã hội và phát triển đất nước bằng chủ nghĩa cộng sản. Cuối cùng thì cả ba điều hứa hẹn ấy đều là viển vông, một sự lừa bịp.

Làm sao có độc lập khi chủ quyền quốc gia bị mua chuộc từ bên trong ra tới đe doạ ở biển khơi bên ngoài khiến lãnh đạo Hà Nội lại trông cậy vào Hoa Kỳ trong khi vẫn chà đạp dân chủ và nhân quyền. Việc một blogger như Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh bị tuyên án tù 10 năm vào hôm 29 vừa qua vì tội chống đối chế độ là một điều mỉa mai khi cô gái anh hùng này thật sự chống lại sự bành trướng của Trung Cộng.

Công bằng xã hội là một hứa hẹn viển vông khác vì đất nước vẫn làm than, đa số người dân còn đói khổ trong khi thiểu số có tiền nhờ có quyền lại là các đại gia giàu có nhất. Còn lại, chủ nghĩa cộng sản thì đã phá sản ở mọi nơi và chế độ Hà Nội phải từ bỏ lề lối tập trung quản lý bằng kế hoạch và áp dụng một số quy luật thị trường để ra khỏi khủng hoảng. Họ gọi đó là “đổi mới” nhưng việc “mới” này chỉ là những gì mà các nước khác đã áp dụng từ lâu rồi.


Nhưng ngày nay chế độ CS muốn thủ tiêu cuốn hồi ký của cụ Trần Trọng Kim cũng chẳng được vì nhân loại đã bước qua thế kỷ 21, việc đốt sách mà họ học từ Trung Quốc thời Tần Thủy Hoàng chẳng những là vô ích mà chỉ phơi bày bản chất của chế độ. Người Việt chúng ta ở nơi đây phải quảng bá tài liệu lịch sử này và nhiều tác phẩm khác để thư viện nào của Hoa Kỳ cũng có những di sản quý báu đó cho các thế hệ sau tham khảo.

Bản thân chúng tôi coi đây là một nhiệm vụ tinh thần mà mình sẽ thực hiện trong cương vị Giám sát viên tại Quận Cam.

Nhìn lên phương Bắc hay nhìn qua Thái Bình Dương, chúng ta thấy một chuyện tương tự tại Hong Kong. Trải qua 155 năm dưới sự cai trị của Đế quốc Anh, người dân Hong Kong không có dân chủ vì lãnh đạo họ là người Anh, không do họ bầu lên. Nhưng họ lại có tự do trong một xã hội cởi mở, nơi mà mọi tôn giáo hay cách sinh hoạt đều sống chung với nhau.

Khi thương thuyết với Chính quyền Anh việc thu hồi lại Hong Kong, lãnh đạo Trung Cộng cam kết duy trì nếp sinh hoạt tự do ấy của Hong Kong vì đấy là sức mạnh kinh tế cho khu vực này. Nhưng 20 năm sau, sức mạnh kinh tế ấy không còn nữa do chánh sách của Bắc Kinh, làm người dân Hong Kong thấy cuộc sống khó thở hơn trước vì nhà đất lên giá và bất công xã hội lan rộng. Nghiêm trọng hơn vậy, không khí tự do cũng chẳng còn, nên từ nhiều năm nay giới trẻ tại Hong Kong đã xuống đường biểu tình mỗi khi đến ngày kỷ niệm việc “hồi quy cố quốc”, mùng 1 tháng 7.

Kết quả đó cho thấy đây là một sự thất bại lớn của Bắc Kinh: dân Hong Kong không muốn và chẳng hãnh diện gì là công dân của Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc. Họ chỉ muốn là “công dân Hong Kong”! Chúng ta cũng thấy chuyện đó ở Đài Loan khi đa số muốn là công dân Đài Loan hơn là công dân Trung Quốc.

Khi nhìn qua Việt Nam và Hong Kong thời nay, chúng ta không thấy ý chí đó, chỉ vì chế độ cai trị.

Người Việt Nam có truyền thống yêu nước từ mấy ngàn năm. Truyền thống ấy giúp dân ta giành lại độc lập sau ngàn năm Bắc thuộc và sau nhiều đợt ngoại xâm của Trung Quốc. Cũng truyền thống ấy khiến dân ta kiên trì chống Pháp trong một phần tư thế kỷ xâm lược rồi hơn 80 năm cai trị của thực dân. Nhưng tinh thần quốc gia của dân ta lại bị cộng sản cưỡng đoạt vì chủ trương quốc tế. Thấy ra điều ấy là cụ Trần Trọng Kim và nhiều lãnh tụ quốc gia khác.

Ngày nay, truyền thống yêu nước còn bị chế độ cộng sản đàn áp: biểu tình chống Trung Quốc bành trướng hay hủy họai môi sinh và lãnh thổ thì bị hành hạ còn ác liệt hơn là kêu gọi dân chủ.

Khi ngẫm lại về các biến cố ấy, chúng tôi thấy ra mối quan hệ then chốt giữa chủ nghĩa dân tộc và tinh thần dân chủ. Nếu có dân chủ, người dân thật sự làm chủ cuộc sống sẽ tự nhiên bảo vệ quyền lợi quốc gia và phát huy chủ nghĩa dân tộc. Không có dân chủ thì người dân phải cúi đầu trước hai tầng bạo lực, là chế độ độc tài nội địa và chủ nghĩa bành trướng của ngoại bang.

Người Việt tại Hoa Kỳ không thể quên được bài toán đó của người Việt ở trong nước.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngược lại, những biến cố dồn dập đủ loại trong COVID-19 mở ra cuộc đấu tranh chính trị mới: đòi quyền được sống còn, có thuốc trị cho tất cả, đi lại an toàn, đó là một cái gì thiết thực trong đời sống hằng ngày và không còn chờ đợi được chính quyền ban phát ân huệ; nó khiến cho người dân có ý thức là trong các vấn đề nội chính, cải tổ chế độ là cần ưu tiên giải quyết. Người dân không còn muốn thấy vết nhơ của Đồng Tâm hay tiếp tục qùy lạy van xin, thì không còn cách nào khác hơn là phải có ý thức phản tỉnh để so sánh về các giá trị tự do cơ bản này và hành động trong gạn lọc. Tình hình chung trong việc chống dịch là bi quan và triển vọng phục hồi còn đấy bất trắc. Nhưng đó là một khởi đầu cho các nỗ lực kế tiếp. Trong lâu dài, dân chủ hoá là xu thế mà Việt Nam không thể tránh khỏi. Cải cách định chế chính trị và đào tạo cho con người để thích nghi không là một ý thức riêng cho những người quan tâm chính sự mà là của toàn dân muốn bảo vệ sức khoẻ, công ăn việc làm
Trong vài thập niên vừa qua, giải Nobel Hòa Bình và Văn Chương được xem là một tuyên ngôn của ủy ban giải Nobel về các vấn đề thời cuộc quan trọng trong (những) năm trước và năm 2021 này cũng không là ngoại lệ. Giải Nobel Văn Chương năm nay được trao cho nhà văn lưu vong gốc Tazania - một quốc gia Châu Phi, là Abdulrazak Gurnah "vì sự thẩm thấu kiên định và bác ái của ông đối với những ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân và số phận của những người tị nạn trong vực sâu ngăn cách giữa các nền văn hóa và lục địa". Cũng vậy, giải Nobel Hoà Bình đã dành cho hai ký giả Maria Ressa của Phi Luật Tân và Dmitry Muratov của Nga "vì những nỗ lực bảo vệ sự tự do ngôn luận, vốn là điều kiện tiên quyết cho nền dân chủ và sự hòa bình lâu dài". Ủy ban Nobel Hòa Bình Na Uy còn nói thêm rằng, "họ đại diện cho tất cả các ký giả đang tranh đấu cho lý tưởng này, trong một thế giới mà nền dân chủ và tự do báo chí đang đối mặt với những điều kiện ngày càng bất lợi" và cho "nền báo chí tự do, độc lập
Sau đó, sau khi “phát khóc” và lau nước mắt/nước mũi xong, bác Hồ liền thỉnh ngay bác Lê về thờ nên mới có Suối Lê Nin (với Núi Các Mác) cùng hình ảnh – cũng như tượng đài – của cả hai ông trưng bầy khắp mọi nơi, để lập ra một tôn giáo mới, thay thế cho Phật/Chúa/Thánh Thần/Ông Bà/Tiên Tổ ... các thứ.
Sự nghiệp chính trị của đại đế Nã-Phá-Luân chẳng liên hệ gì nhiều đến Trung Quốc nên không biết tại sao ông nổi hứng tuyên bố một câu bất hủ mà giờ này có giá trị của một lời tiên tri “Hãy để Trung Hoa ngủ yên bởi vì khi tỉnh giấc nó sẽ làm rung chuyển thế giới.” Vào tháng 03/1978 có một sự kiện ít được biết đến nhưng bắt đầu lay thức gã khổng lồ Trung Quốc khi một hợp tác xã nông nghiệp ở Phúc Kiến xin phép được giữ lại phần sản xuất vượt chỉ tiêu để khuyến khích nông dân hăng hái làm việc. Đây là giai đoạn trước Đổi Mới nên viên thư ký đảng bộ của hợp tác xã bị phê bình kiểm điểm. Chỉ 8 tháng sau đó vào cuối năm 1978 Đặng Tiểu Bình tuyên bố cải tổ và mở cửa nền kinh tế. Đề nghị nói trên của hợp tác xã được mang ra thử nghiệm với kết quả sáng chói nên viên thư ký đảng được ban khen.
Sau 10 năm ra sức Xây dựng, chỉnh đốn hàng ngũ để bảo vệ đảng không tan, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vẫn thừa nhận: ”Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" vẫn chưa được ngăn chặn, đẩy lùi một cách căn bản, thậm chí có mặt còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn, có thể gây ra những hậu quả khôn lường.”
Nếu mối quan hệ Trung Quốc-Hoa Kỳ là một ván bài, thì người Mỹ sẽ nhận ra rằng họ đã được một lá bài tốt và tránh khuất phục trước nỗi sợ hãi hay niềm tin vào sự suy tàn của Hoa Kỳ. Nhưng ngay cả một lá bài tốt cũng có thể thua, nếu chơi tệ. Khi chính quyền của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden thực hiện chiến lược cạnh tranh đại cường với Trung Quốc, các nhà phân tích tìm các phép ẩn dụ trong lịch sử để giải thích tình trạng cạnh tranh ngày càng sâu sắc. Nhưng trong khi nhiều người dựa vào sự khởi đầu của Chiến tranh Lạnh, thì một ẩn dụ lịch sử đáng lo ngại hơn là sự bắt đầu của Thế chiến thứ nhất. Năm 1914, tất cả các cường quốc đều mong rằng cuộc chiến Balkan lần thứ ba là ngắn ngủi. Thay vào đó, như nhà sử học người Anh Christopher Clark đã chỉ ra rằng, các cường quốc bị mộng du bước vào một trận đại chiến kéo dài bốn năm, phá hủy bốn đế chế và giết chết hàng triệu người.
“Căn bản đời sống của chúng ta là đi tìm sự hạnh phúc và tránh né sự khổ đau, tuy nhiên điều tốt nhất mà ta có thể làm cho chính bản thân chúng ta và cho cả hành tinh này là lật ngược lại toàn bộ suy nghĩ ấy. Pema Chodron đã chỉ cho chúng ta thấy mặt cấp tiến của đạo Phật.”
Năm 1964, anh Phạm Công Thiện được mời vào Sài Gòn để dạy triết Tây tại Viện cao đẳng Phật học vừa được mở tại chùa Pháp Hội (tiền thân của Viện Đại học Vạn Hạnh sau này), tôi được anh cho đi theo. Tôi nhớ anh đã dẫn tôi đến thăm Bùi Giáng vào một buổi chiều, trong một căn nhà ở hẻm Trương Minh Giảng, căn nhà rất ẩm thấp, chật hẹp, gần như không có chỗ cho khách ngồi.
Cố nhớ kỹ lại, tôi vẫn không nghĩ ra là tôi đã gặp thầy Phước An lần đầu vào dịp nào (dĩ nhiên là ở Vạn Hạnh, trong năm 1972, nhưng trong hoàn cảnh nào?). Chỉ nhớ rằng quen nhiều và thân với thầy lắm. Phòng 317 Nội Xá Vạn Hạnh là phòng ở của quý thầy trẻ, là những người tôi rất thân, và đây là một phòng mà tôi có thể ra vào bất cứ lúc nào.
Ba bà Mai kể trên thuộc hai thế hệ. Cả ba đều đã trải qua một kiếp nhân sinh mà “phẩm giá” người dân bị chà đạp một cách rất tự nhiên.” Nếu may mắn mà “CNXH có thể hoàn thiện ở Việt Nam” vào cuối thế kỷ này, như kỳ vọng của ông TBT Nguyễn Phú Trọng, chả hiểu sẽ cần thêm bao nhiêu bà Mai phải (tiếp tục) sống “với tâm thức khốn cùng” như thế nữa?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.