Hôm nay,  

Viên Ngọc Bali

01/08/201714:12:00(Xem: 6353)

Truyện ngắn của Nguyễn Văn Sâm


Côn Lôn mờ mịt mấy ngàn,

Thầy đi để lại một đàn con thơ.

Rán nuôi dưỡng làm ngơ nuốt thảm,

Gánh gia đình đâu dám từ nan,

Dẹp buồn thảm nén than van,

Đêm ngày con mẹ bẽ bàng cùng nhau.

Nào những lúc trước sân dưới gác….


Đạm Phương nữ sĩ (cháu nội vua Minh Mạng)


Bận bịu với cái ba-lô mang sau lưng và túi computer xách tay lỉnh kỉnh tuột lên tuột xuống trên vai, Tuấn thở phào khi  đẩy được cái va-li nhập vào đoàn người đang sắp hàng vô cửa. Sao người ta đi chơi cả tuần mà ai cũng hành lý gọn nhẹ, phụ nữ chỉ có bóp đầm hay túi xách nhỏ, đàn ông thì quá rảnh tay, có thể nói là không mang gì hết. Hình như có gì không ổn đây. Tuấn cười làm thân với người đi sau:

‘Trông ông thong thả quá vậy?’

            ‘Ông giao hành lý đằng kia, chỗ nầy chỉ xếp hàng vào làm thủ tục lên tàu, không cần mang hành lí nặng theo làm gì.’ Người kia đưa cặp mắt xanh như da trời nhìn anh. ‘Chỉ những gì có thể xách theo người thôi, rồi người ta sẽ chuyển hành lý cá nhân tới trước cửa phòng cho mình.’ Ông ta mỉm cười cuối câu để giúp Tuấn khỏi lúng túng.

‘Tiện qua ha! Vậy mà tôi không để ý.’ Tuấn nhanh nhẩu chữa thẹn rồi chào tạm biệt.

Vậy là mới bắt đầu cuộc hải trình đã bị xộ nặng. Rõ ràng là chân quê.

Lại hì hục đẩy hành lý xếp vào hàng mới. Phải chi có Hồng ở đây thì chắc là không bị quê độ kiểu nầy, cô ta quan sát hay lắm và nhanh nhẹn ứng phó với hoàn cảnh. Nhớ tới Hồng, Tuấn giận ngang, người gì mà làm cho mình bực tức hoài, bao nhiêu năm vẫn ngang bướng, chứng nào tật nấy khiến gia đình không còn hòa khí, chẳng lúc nào vui. Ly dị có thể là giải pháp tốt nhất để tránh gánh nặng. Biết buông bỏ, biết xả trừ phải chăng là trường hợp nầy? Càng nhẫn nhịn, càng cố ôm giữ để còn nguyên vẹn cái gia đình đã bị ám đen hằn học thì càng khổ tâm hai người và cả cho đứa con bởi vì ai nấy đều phải ôm mang hành trang quá nặng do sự giận hờn đeo đẳng thường xuyên trong tâm.

Thủ tục gỡi hành lý rồi cũng xong. Tuấn vào hàng cũ, nhích lần lần vào tiền sảnh để làm thẻ nhận phòng. Xong xuôi Tuấn thở phào nhẹ nhõm, tìm chỗ ngồi nghỉ, bâng quơ quan sát hàng người mới đến tiếp tục xếp dài, dài thiệt dài. Nhìn đoàn người trước mặt ai dám nói dân xứ nầy thất nghiệp nhiều, ai nói kinh tế Mỹ đang trì trệ? Họ du lịch đông đảo, xài tiền không mấy đắn đó. Như là càng thất nghiệp người ta càng tiêu tiền sợ rằng khi có công ăn việc làm sẽ chẳng còn thời giờ cho riêng mình nữa chăng?

Tất cả mọi thứ đều lạ lẫm với Tuấn. Những chiếc tàu du hành chiếc nào chiếc nấy như một tòa nhà mười mấy tng, cao chót vót, đứng gần, ngước mắt lên từng trên cùng nghễnh thiếu điều trật cổ. Khách du hành quá đông, tới mấy ngàn người, tràn ngập khu đại sảnh và đầy đặt sân trước, sân sau, lớp nầy vừa lên tàu lớp kia đã tiếp theo đến, liên tục, liên tục. Tuấn đưa mắt vòng quanh tìm người Việt để làm quen nhưng không thấy, chỉ bắt gặp đôi mắt đẹp tròn của một phụ nữ Á Châu bới tóc theo kiểu người Miến, Nam Dương hay Thái Lan gì đó, búi tóc hơi to khổ, dẹp, không tròn như của phụ nữ Việt vùng quê Hậu Giang mấy chục năm trước. Thấy Tuấn nhìn mình hơi lâu, người phụ nữ trẻ mĩm cười xã giao rồi tiếp tục đầy hành lý theo một lối đi đặc biệt dành cho nhân viên. Tuấn chép miệng: ‘Ước gì đôi mắt ‘giết người’ kia là đôi mắt Việt Nam! Dáng dấp nọ thì chắc là không phải rồi, phụ nữ Việt cỡ tuổi nầy mảnh mai hơn, không mạnh mẽ như vậy.’ Tuấn chợt mỉm cười tự hỏi không biết tại sao bỗng nhiên mình lại phân tích nầy nọ về một bóng dáng phụ nữ vừa mới thoáng qua dưới mắt. Bậy quá! Bậy quá!

 

***

 

Hai ngày ở trên tàu, Tuấn mở lòng ra để ôm hết vẻ đẹp đẽ sang trọng của của con tàu, sự phục vụ chu đáo của toàn thể nhân viên cũng như sự tổ chức hoàn chỉnh từng chi tiết và lịch sự. Gió biển mát lạnh, bầu trời xanh trong, thiên nhiên bao la, con tàu trở nên nhỏ bé nhưng vẫn ngang nhiên lướt sóng trùng dương. Trạm đầu tiên, thủ phủ của Alaska, Juneau êm đềm thơ mộng, rồi thành phố lớn nhất Enchorage với vùng êm ấm cây cối bao trùm, núi rừng trùng điệp, đất nhiều người ít với thời gian ban ngày dài hơn ban đêm cả mấy tiếng đồng hồ.

Du khách khi lên bờ được chào mời tận tình tham dự tour nầy tour nọ quanh quẩn gần đó để biết thêm vùng đất mà mình mới đến lần đầu, Tuấn nhập vô đoàn người đi sang biên giới nước láng giềng, đến tỉnh địa đầu Yukon mà lòng đang buồn nên dửng dưng như đá. Nếu có Hồng đi bên cạnh thì cuộc hải trình và lâm du nầy mang nhiều ý nghĩa hơn. Tới nơi, xuống xe, anh móc điện thoại định bấm số cho Hồng nhưng lại thôi, mở máy rồi tắt máy. Có cần thiết để đón nhận những chuỗi dài trách móc nặng nhẹ không? Có đáng để kéo dài cuộc đời với trái tim bị thắt chặt bằng những càu nhàu quá đáng và vô lý không?

Bỏ máy vô túi lại, Tuấn đi theo đoàn người vô coi chó kéo xe chở du khách. Ôi tội nghiệp những con chó, khi bậm chân há mõ thè lưỡi ráng sức để có cái lực kéo ban đầu. Sao mà tội tình, sao mà bất nhẫn! Tuấn xin chụp hình cô gái quê làm việc săn sóc tắm rửa đàn chó. Cô gái mạnh khỏe và yêu đời, có cái đẹp thiên nhiên dung dị của người đồng quê dầu sống ở xứ văn minh giàu có. Cô mỉm cười thiệt tươi và tự nhiên trước ống kính của Tuấn với câu nói như chữa thẹn:

‘Sao lại chụp hình một phụ nữ nhà quê?’

 ’Tôi muốn giữ hình ảnh của cô như một kỷ niệm về xứ nầy.’ Tuấn cười nheo mắt. ‘Hình cô sẽ được treo làm đẹp phòng khách nhà tôi. Cô biết đó, khó mà có được lần thứ hai đến đây, càng khó hơn để lại được gặp cô.’

‘Ông từ đâu đến vùng nghèo nầy?’

‘Victorville, California!’

‘Yukon, tỉnh nhỏ của Canada xin chào người đến từ California, Mỹ Quốc!’ Nói rồi người thiếu nữ xách hai tay hai cái cái xô nặng trĩu, thoăn thoắt đi về phía mấy con chó đương sủa vang vì đói.

Lại nhớ tới Hồng, nụ cười kia tươi tắn và trong suốt như những lần đầu gặp nhau ở quê nhà mười năm trước. Nụ cười đã biến dạng vài ba năm gần đây. Giá mà có thể kéo lại thời gian, giá mà con người ít bị hoàn cảnh tác dụng nhiều như vậy. Giá mà và giá mà… Tuấn bỏ đám đông ra chỗ vắng, nơi chưng bày những vật dụng của người ngày xưa đãi vàng: máng lắng cát, những dụng cụ sàn, đãi, cái giếng lộ thiên, cây roi, yên ngựa, những vật dụng sinh sống thường nhật của người sống trong rừng núi thiếu thốn như nồi, niêu, chảo, ấm… Tất cả đều mẻ sứt, cũ kỹ nghèo nàn của thời khó khăn khi mới lập quốc.

Tuấn chép miệng: Giống như mình trong những năm Kinh Tế Mới trên rừng. Chỉ có điều là họ tự nguyện và tự nhìn thấy viễn tượng huy hoàng chẳng cần ai phác họa, vẽ vời, mê hoặc.

Buổi chiều về lại tàu, Tuấn uể oải, chỉ muốn nằm dài trên boong tầng 12 lắng nghe máy tàu trổi nhịp đều đều bất tận khi rẽ sóng, nhìn ráng chiều ửng vàng khe núi và ngắm hoàng hôn tan dần giữa các áng mây, những dãy núi trùng điệp hùng vĩ như sáng lên trong màu tuyết phủ, hình như đêm không muốn hiện diện nên về rất chậm ở đây.


***


Đang nằm lơ mơ thì có tiếng gỏ cửa phòng, rụt rè, nho nhỏ. Chắc người dọn giường, Tuấn nghĩ thầm và khoác vội cái áo ra mở cửa. Giống như trong truyện cổ tích có cô Tấm hiện ra, nàng Bali đứng đó làm Tuấn bất ngờ, mái tóc dài bỏ xõa một bên ngực, bồng bềnh quyến rũ, gương mặt trang điểm thanh thoát nhẹ nhàng, cử chỉ ngập ngừng e ấp, tay ôm một cái giỏ xách ý chừng là quần áo hay khăn choàng để đi tắm nắng chiều. Tuấn hỏi bằng mắt vừa đưa tay bắt với nụ cười thân thiện, người con gái cũng im lặng, nhưng lách mình bước mau vô phòng, cánh cửa được khép nhẹ sau lưng.

‘Sao lại không mời khách vào?’

‘Bàng hoàng còn hồn đâu để mời mọc nữa!’ Tuấn thiệt tình.

‘Ngồi xuống được không?’

‘Cô có thể ngồi bất cứ ở đâu trong phòng nầy!’

‘Có chuyện rất dài cần giải bày với anh. Tôi có thể mất việc vì đến đây, nhưng quan hệ quái gì chuyện đó.’ Cô gái Bali ngó nghiêng qua phòng tắm và bước vào đó, thái độ mạnh dạn cả quyết làm Tuấn không đoán được nàng muốn gì. Chuyện lãng mạn khó gặp trong đời hay bẫy rập được bủa giăng? Tuấn ngồi thừ thắc mắc. Hơn mười phút sau, một nàng tiên bước ra. Tóc đen huyền, đẩm ướt, xõa xuống hai bên ngực he hé trắng ngần choàng ơ hờ bằng cái khăn lông lớn. Đôi vai trần rộng hớ hênh phía dưói đôi chút vẫn còn lấm tấm những giọt nước may mắn long lanh. Hình như chỉ có thế thôi. Tuấn nhích mình nhường thêm chỗ, cô gái ngồi lên giường, một tay nắm nhẹ hai mép khăn, một tay vói lấy gối. Tuấn vội chồm tới đưa ra hai cái gối lớn, chỉ giữ cho mình hai cái gối nhỏ. Người đẹp Bali ngã người thoải mái, kéo mền lên trùm tới cổ và vỗ vỗ chỗ trống kế bên. Tuấn vô cùng bối rồi, chưa biết làm gì cho đúng…

Tiếng leng keng của máy đánh bạc tạo nên một bản nhạc không ngừng nghỉ nhưng hấp dẫn lôi kéo bước chân của Tuấn. Anh đi vòng quanh từ hàng nầy qua hàng kia, mắt liếc xem những con số xanh xanh ghi lượng credit khách thắng để tìm xem người nào có con số lớn. Cũng là cái thú, ké vào sự hồi hộp thắng thua canh bạc thiên hạ đặt, mình tham dkhỏi tốn tiền, khỏi xót xa.

Có cảm giác như ai đó nhìn mình từ phía sau, Tuấn quay lại. Ồ! Đôi mắt Á Châu hôm nọ. Theo dõi cái chớp mắt hơi bối rối của người đối diện, Tuấn biết người kia cũng nhận ra mình, anh mỉm cười chào rồi rảo bước lại một bàn chơi blackjack cạnh nàng, ngồi xuống. Thì ra cô ta là floorwoman của sòng bạc. Ngon ha! Phụ nữ Á Châu lại làm chức nầy trên một chiếc tàu hải du. Nàng tiến đến trước mặt Tuấn hỏi thẻ phòng để làm thẻ sòng bài. Bỗng nhiên Tuấn buột miệng:

‘Cô là người xứ nào vậy? Tôi ước ao cô là người Việt Nam.’

‘Tôi sanh ở đảo Bali. Indonesia.’

  ‘Cô biết không, sau chuyến đi nầy công ty sẽ đổi tên tàu, không còn là Viên Ngọc Bắc Âu nữa mà là Viên Ngọc Bali.’ Tuấn tán.

Nụ cười nửa miệng nở ra trên môi:

‘Cám ơn ông. Ông là người Việt Nam?’

‘Vâng. Và tôi ao ước được vẽ chân dung cô! Hôm nào xin phép được mời cô xuống phòng tranh, tôi sẽ tìm dịp vẽ khuôn mặt đặc biệt của cô, nhất là đôi mắt.’

Chỉ có nụ cười xã giao mà không có câu trả lời hay câu hỏi thắc mắc.

Tuấn móc bóp và móc bóp. Khi có bài xấu, không biết rút hay ngừng, để trấn tỉnh mình Tuấn ngâm nho nhỏ: Côn Lôn mờ mịt mấy ngàn. Thầy đi để lại một đàn con thơ…. Người dealer chia bài hỏi với nụ cười hóm hỉnh: Anh đọc bùa ấy à? Cô gái đến gần bàn bài đở lời: Ông ta ngâm thơ Việt Nam đó. Tuấn đưa mắt cám ơn. Những tờ giấy trăm lần lượt bay ra và biến mất trên bàn… Mỗi lần đưa thẻ cho cô gái ghi điểm, Tuấn thoáng thấy ánh mắt như tiếc tiền, như trách móc, ánh mắt của người vợ không bằng lòng chồng bài bạc. Tuấn áy náy đứng lên nói nhỏ vào tai nàng Bali: ‘Không rành đánh bài, chỉ muốn được dịp nói chuyện với cô thôi.’ Lại nụ cười và ánh mắt chào nhau quyện cuốn không khí trong phòng, tự dưng Tuấn nghĩ là mình đang thắng đậm.

Vẫn thứ tiếng Anh lưu loát như từ trước tới giờ:

‘Tôi hiểu hai câu thơ anh ngâm nga hôm qua. Bà ngoại tôi thường ru tôi ngủ khi tôi còn rất nhỏ. Nghe ru vài lần là hai bà cháu đều chìm trong giấc ngủ. Bài đó dài lắm, tôi nhớ lõm bõm thôi nhưng không tự mình nói ra được.’

Tuấn vặn nhỏ cái TV, cô gái nhích vào trong như nhường chỗ bên cạnh, Tuấn lấy hết can đảm giở mền chun vô. Đôi mắt tham lam của đàn ông nhân dịp nhìn những gì có thể nhìn được. Mạnh mẽ, tuyệt trần. Màu trắng mặn mà của chút da bánh mật. Tim Tuấn đập mạnh liên hồi. Ngày xưa quen Hồng cả hai năm, bao nhiêu là hứa hẹn cũng chưa được cơ hội nầy, bây giờ không dưng tiên lại hiện xuống trần gian, trước mặt Tuấn là cả một không gian đầy bí ẩn và lãng mạn. Một Giáng Kiều bước từ trong tranh ra nằm bên cạnh Tú Uyên nói chuyện kiếp tiên của mình!

Vẫn nụ cười và ánh mắt sâu thẳm dịu dàng:

‘Tối nay nghỉ làm, trưa mai mới có ca, mình còn nhiều thời giờ hàn huyên tâm sự. Không cần biết anh làm nghề gì, hiện sống ở đâu, tôi chỉ muốn nói chuyện đời mình cho anh nghe thôi. Và anh là người duy nhất có bữa gặp gỡ hôm nay cũng như câu chuyện anh sẽ nghe.’

Tuấn nằm im, dường như anh sợ cử động thì người đối diện sẽ biến mất, anh thử chứng nghiệm thật-ảo bằng cách ghi nhận cảm giác của cánh tay mình khi va chạm với cái hông mềm mát của người con gái lạ lùng nằm kế bên. Không khí gian phòng tỏa khí lạnh dịu hơn bình thường, như là mùi thơm da thịt có thể bay xuyên qua chăn để quyện trong không gian.

‘…Bà ngoại tôi là người Việt Nam lai Bali. Tôi sống với bà từ nhỏ nên hiểu được tiếng Việt dầu không nói được thành câu. Ông cố tôi là người Vĩnh Long, chống thực dân Pháp nên bị đày chung thân ra Côn Nôn đâu từ đầu thế kỷ 20. Ở đó chừng 10 năm thì ông cùng một số bạn vượt ngục thả bè rời đảo. Tôi không biết số phận những bạn bè của ông cùng đi trên chiếc bè đó. Tôi chỉ biết ông đến đảo Bali trong tình trạng gần như tuyệt vọng, cái chết cận kề vì đói khát và cơ thể mất nước quá nhiều. Ông được một gia đình thổ dân giúp đỡ săn sóc. Ông lấy lại sức, sau đó yêu và kết duyên với người con gái đã săn sóc mình.

Bà Ngoại tôi là kết quả của mối tình viễn xứ đó. Bà được cha dạy tiếng Việt và chữ Việt, dạy về nguồn gốc của mình, dạy về thi ca Việt Nam mà ông biết, ông nhớ. Và tôi được bà Ngoại dạy lại, nhưng khi đó bà cũng đã già, tôi thì còn quá nhỏ để hiểu được ngôn ngữ Việt. Bài thơ có hai câu ông đọc là của vợ một người bạn tù gởi cho chồng mà ông ctôi đã thuộc khi còn bị giam ở Côn Lôn… Cuộc sống ở đảo, chút xíu văn hóa Việt của tổ tiên rơi rớt nơi quê người ươm mầm trong tâm hồn tôi không có dịp phát triển, càng ngày càng tàn rụi. Kỷ niệm với bà cũng lờ mờ, chỉ nhớ được câu dặn dò khi bà gần lìa đời rằng ‘Lớn lên con nên lấy chồng người Việt Nam.’ Tôi chẳng hiểu gì, cũng chẳng thấy lý do chánh đáng trong lời yêu cầu nhưng ánh mắt bà lúc đó tha thiết quá nên tôi đã nhè nhẹ gật đầu cho bà vui.

‘Làm sao được! Đâu cần phải như vậy! Hôn nhân phải bắt nguồn bằng tình yêu! Dân tộc nào cũng thế thôi, quan trọng là con người cụ thể.’ Tuấn nhận xét, giọng phản đối.

‘…Vậy nên cách đây chừng 5 năm tôi đi thăm Việt Nam, có tìm đến Vĩnh Long nữa! Chỉ muốn ghi thật sâu vào tâm trí quê hương của ông tổ chính khí của mình thôi. Và tôi thất vọng, tôi bị giựt bóp, bị giựt máy ảnh, mất Giấy Thông Hành, té  trầy mặt, lỗ đầu. Không ai giúp tôi. Người ta chỉ đứng ngó, có người còn cười. Vào chỗ khai báo thì chẳng ai hiểu tôi nói gì. Họ như không muốn tiếp mình. Lạnh nhạt. Sau cùng họ bắt tôi viết trên một tờ giấy khai báo sự việc, biểu một tuần trở lại với giấy tờ chứng minh rằng máy ảnh khai mất là của tôi. Làm sao tôi có thể ở đó thêm ngày nào nữa chớ?

Tôi trông đợi một người nào nói rằng tôi hơi giống Việt Nam để có dịp bày tỏ về nguồn cội xa xưa của mình mà tôi hằng hãnh diện. Chẳng ai nói, người ta chỉ chăm chăm trên những món nữ trang tôi đeo trên mình…. Cái Giấy Thông Hành sau đó có người gọi điện thoại đến khách sạn nói là anh ta lượm được và xin tôi đền ơn một số tiền lớn!’ Người kể chuyện ngừng nói, Tuấn nhắm mắt nhưng nghe được tiếng cười mũi, anh thấy đau nhói trong tim.

‘Tôi thông cảm với cô. Lòng thôi thúc được tiếp xúc với chút gì đó liên hệ xa gần với quê hương của ông tổ hào hùng lại bị thất vọng vì nhiều thứ khi đi vào thực tế.’

‘Tôi đến đây với nhiều lý do, khó phân tích rạch ròi. Một sức đẩy từ bên trong lòng mình thì đúng hơn. Nhất là hai câu thơ anh ngâm nga khi đánh bài.’ Tiếng kể ngừng lại, ánh mắt dò hỏi quay qua, lướt trên mặt Tuấn.

‘Anh nói sẽ vẽ chân dung tôi, nhưng mình không còn thời gian nữa, ngày mai tàu cặp bến rồi. Viên ngọc Bali của anh sẽ trôi theo dòng đời, ngoài tầm tay của anh mãi mãi.’ Giọng cô gái xúc động. Tuấn làm gan choàng qua ôm và hôn tới tấp lên đôi mắt đẹp. Người con gái nhắm mắt, đáp ứng. Cả hai đều lấy làm lạ là loạt hôn cuồng bão phần ngon ngọt của tình quê hương thuần khiết nhiều hơn phần thân xác gái trai.

Một chập sau, có bàn tay mát rượi đưa lên vai Tuấn, ở đó một chút rồi đẩy nhẹ ra, Tuấn buông mình về vị thế cũ.

‘Nói chuyện viên ngọc mới nhớ lại lời bà Ngoại dặn ngày xưa: Ở đời có hai thứ ngọc. Thứ mọi người đều quí chuộng, trao đổi để chiếm hữu bằng tiền. Loại nầy tồn tại theo thời gian và thay đổi chủ nhân luôn, nó chẳng chung thủy với ai cả. Ai cũng biết đó là kim cương, ngọc thạch, ngọc bích… Loại ngọc khác chỉ quí với cá nhân nào biết giá trị của nó thôi, nó có đời sống vật lý rất ngắn ngủi nhưng trụ với chủ nhân mãi mãi, trung thành, ở luôn trong tâm hồn người chủ, tiền tài không làm nó đổi chủ về với ai khác hay bỏ đi nơi khác …’

Cô gái Bali ngừng nói, day qua hôn lên môi Tuấn thật nồng nàn, trong cơn chếnh choáng, anh đưa chưn mình gác vào nơi không thể gác. Nghe từng cơn sóng gợn giông bão trong hồn. Một ngón tay đưa lên môi Tuấn như lời cấm đoán. Tuấn trở mình.

‘.. . Thứ ngọc đó chủ nhân phải có tâm hồn nhạy bén để đón nhận, nó là vạt nắng chiều trên tàng cây, cơn gió nhẹ buổi sớm tinh mơ, tiếng dế kêu trong bụi cỏ, giọng ễnh ương cạnh bờ ao, hạt sương long lanh trên đuôi lá, giọt nước mắt chảy trên má người vợ, cái nhìn tình tứ của người yêu, câu nói chí tình của người mình không quen biết lắm, một bờ vai tựa khi thất vọng não nề, nụ hôn thuần khiết ngoài xung động của thân xác… Nói tóm lại những viên ngọc nầy đầy rẫy trong đời sống hằng ngày nhưng phải tinh tế lắm mới cảm nhận được. Và lúc ấy tâm hồn người cảm nhận trở thành lớn hơn, đáng quí hơn nhiều.’

Im lặng thiệt lâu, Tuấn nghe được văng vẳng thông báo gì đó của tàu, anh nằm mơ màng để thấm thía từng lời nói vừa rồi. Ngọc ngà thế gian là trang sức bên ngoài cơ thể và ngà ngọc tỏa sáng trong tâm hồn con người mới là bảo vật để trang điểm đời sống của từng người mà ai cũng có thể có.

Người con gái nắm tay Tuấn lay lay:

‘Đêm nay em sẽ ngủ lại đây, trong vòng tay anh ấm áp. Kể chuyện đời mình xong em thấy nhẹ nhõm lòng. Lời hứa với Ngoại coi như đương thực hiện. Anh có quyền…Tùy ý. Nhưng em muốn nghe lại mấy câu thơ kia thiệt nhiều lần, để nhớ lời ru ngọt ngào của Ngoại ngày xưa mà từ khi bà mất đi em không còn được nghe nữa.’

Má môi người nói hồng lên rực rỡ, Tuấn có cảm giác như đủ chiếu rọi vệt sáng long lanh trên tường. Tuấn xoa lên đôi vai trần mát rượi màu tuyết dưới nắng tà.

‘Xin tuân lệnh! Ru em ngàn lần nghe….!’


***


Tuấn thức dậy mới biết rằng mình ru chưa đủ ngàn lần đã ngủ quên trong êm ấm mật ngọt. Cô gái giống như người kỳ nữ trong truyện liêu trai, hiện ra bất ngờ và biến mất như sương khói. Vậy là mình có một đêm ngủ chay bên viên ngọc Bali to lớn, hấp dẫn. Tuấn nghĩ thầm lòng mà lòng tỉnh táo, vui vui, không cảm thấy tiếc rẻ gì hết. Bài học được ban cho quí giá hơn thực phẩm bình thường của trần gian thập bội. Anh nhớ tới ánh mắt tha thiết ngày xưa của Hồng, những lời thủ thỉ dịu dàng tình tứ khi hai đứa mới yêu nhau, nhớ tới những giọt nước mắt ướt đẫm trên gương mặt giận hờn của vợ gần đây, những viên ngọc trong tầm tay anh, có tì vết chút đỉnh nhưng vẫn là vật trân quí của riêng mình. Hạnh phúc chính là cái hiện tại mình đang nắm trong tay, cái mình tự tạo.

Tuấn mở máy, gọi số, nói giọng thiệt ngọt ngào từ trong tim mình, đầu dây kia có tiếng khóc thúc thít, Tuấn chảy nước mắt vì sung sướng.

Cám ơn người đẹp Bali. Cám ơn viên ngọc Việt lạc loài xứ lạ.

 


 

Nguyễn Văn Sâm              

Victorville, CA, June 10, 2010

(một tuần sau chuyến hải du trên tàu Norwegian Pearl)

blank

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.